Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 382/202/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH B

BẢN ÁN 382/202/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Tp. Q, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 167/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 63/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Vỹ M, sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn 15, xã H, Tp. B, tỉnh Đ.

Trú tại: 192, đường số 19, phường T, Quận 7, TP. H.

Bị đơn: Anh Phan Hữu T, sinh năm 1983

Địa chỉ: Tổ 42, KV 6, p. L, Tp. Q, tỉnh B.

(Chị M có đơn xin xét xử vng mặt; anh T vng mặt lần 2 không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/7/2021, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Vỹ M trình bày:

Sau thời gian tìm hiểu, chị và anh Phan Hữu T tự nguyện cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thành phố B, tỉnh Đ vào ngày 17/3/2014. Sau khi cưới hai vợ chồng vào thành phố H sinh sống một thời gian sau đó về nhà chồng tại Tổ 42, khu vực 6, phường L, thành phố Q ở. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh Trường cờ bạc, không lo làm ăn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau nhưng vì gia đình, con cái nên chị đã nhẫn nhịn, động viên nhưng anh T không thay đổi dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Đến tháng 10 năm 2019 vợ chồng ly thân, chị mang con về nhà mẹ ruột ở Đ sinh sống, kể từ đó hai bên không liên lạc, thăm hỏi, vợ chồng không còn tình cảm và không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu ly hôn anh T.

- Về con chung: Chị và anh Trường có 01 con chung là cháu Phan Lê Huy K, sinh ngày 01/9/2016; sức khỏe cháu bình thường, hiện đang ở với chị. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu K, không yêu cầu Tòa giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị M không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ngoài ra, vợ chồng không nợ ai và không ai nợ vợ chồng chị.

Bị đơn anh Phan Hữu T: Tòa đã nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng anh T không đến Toà làm việc nên Tòa không lấy được lời khai.

+ Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Q phát biểu việc tuân thủ pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lê Thị Vỹ M, chị M được ly hôn anh Phan Hữu T.

- Giao cháu Phan Lê Huy K cho chị M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Lê Thị Vỹ M có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn với anh Phan Hữu T, trú tại địa chỉ: Tổ 42, khu vực 6, phường L, Tp. Q, tỉnh B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Tp. Q, tỉnh B theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về vắng mặt đương sự:

- Đối với nguyên đơn: Trước khi mở phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Vỹ M có đơn xin xét xử vắng mặt; xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật nên Tòa chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập hợp lệ anh Phan Hữu T để làm việc, tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T không đến Tòa. Trước khi xét xử, Tòa án tiến hành thủ tục tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh T không có mặt tại phiên tòa, vắng mặt lần thứ 02 không có lý do. Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Phan Hữu T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Vỹ M và anh Phan Hữu T cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thành phố B, tỉnh Đ vào ngày 17/3/2014 trên cơ sở tự nguyện nên quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh T là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống vợ chồng chị M và anh T không hạnh phúc, hai bên bất đồng quan điểm, mỗi người có cách sống khác nhau; anh T ham chơi cờ bạc, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình; thời gian qua vợ chồng nhiều lần nói chuyện, tìm cách hòa giải tình cảm vợ chồng nhưng không được mâu thuẫn ngày càng lớn; hai bên sống ly thân, chị M mang con về nhà mẹ ruột ở Đ sinh sống, cả hai không có sự quan tâm, chăm sóc, không có trách nhiệm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh T đến Tòa làm việc và hòa giải nhưng anh T không đến Tòa; điều đó chứng tỏ anh T không có thiện chí để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, chị M yêu cầu ly hôn anh T là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng chị M và anh T có 01 con chung tên Phan Lê Huy K, sinh ngày 01/9/2016; hiện nay cháu đang ở với chị M, sức khỏe bình thường. Ly hôn, chị M yêu cầu được nuôi cháu K. Xét thấy: Hiện tại cháu K còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ. Trong quá trình chung sống và sau khi vợ chồng ly thân ra ở riêng chị M là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K; hơn nữa chị M có công việc và thu nhập ổn định đủ điều kiện nuôi con. Do đó, để cháu phát triển một cách toàn diện về mọi mặt nên giao cháu K cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Vỹ M không yêu cầu Tòa giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Lê Thị Vỹ M không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Lê Thị Vỹ M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[2.5] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b Khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Lê Thị Vỹ M được ly hôn anh Phan Hữu T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cháu Phan Lê Huy K, sinh ngày 01/9/2016 cho chị Lê Thị Vỹ M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Vỹ M không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom đ cản trở hoặc gây ảnh hưởng xu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Vỹ M không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Vỹ M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003101 ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Q, tỉnh B.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 382/202/HNGĐ-ST

Số hiệu:382/202/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về