Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 36/2022/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 02 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 13 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lý Thị Th; Sinh năm: 1989; Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Trần Văn Nh; Sinh năm: 1988; Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 11 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Lý Thị Th trình bày:

- Về hôn nhân: Bà Lý Thị Th và ông Trần Văn Nh tự nguyện kết hôn vào năm 2020, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 82 ngày 04/6/2020. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 6/2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi vã nhau, ông Nh thường xuyên đánh bà Th gây thương tích. Nay bà Th xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà và ông Nh không còn, nên bà Th yêu cầu ly hôn với ông Nh; Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà Th và ông Nh có 01 người con chung tên là Trần Lý Nhã V, sinh ngày 27/7/2020. Hiện nay cháu V đang sống với bà Th. Bà Th yêu cầu được nuôi con chung tên là Trần Lý Nhã V, sinh ngày 27/7/2020 đến khi thành niên, không yêu cầu ông Nh cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: Trong thời gian chung sống bà Th và ông Nh không có tài sản chung và không có nợ chung, nên bà Th không có yêu cầu gì.

Bị đơn là ông Trần Văn Nh đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải, ông Nh không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cũng như không đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông Nh.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Trong vụ án này Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn đã chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng đối với bị đơn không chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là xử cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn, xử giao cháu Trần Lý Nhã V, sinh ngày 27/7/2020 cho bà Th nuôi dưỡng đến khi thành niên; Về tài sản chung và nợ chung, không có đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ông Trần Văn Nh là bị đơn trong vụ án, ông Nh đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Nh.

Đối với nguyên đơn bà Lý Thị Th đã có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà Th.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Lý Thị Th và ông Trần Văn Nh là hôn nhân hợp pháp. Sau thời gian chung sống hạnh phúc, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống, tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nhưng ông bà không tìm giải pháp để hàn gắn lại mối quan hệ hôn nhân của ông bà, nhằm tạo điều kiện chung sống lại với nhau. Tại đơn khởi kiện ngày 30 tháng 11 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bà Th yêu cầu được ly hôn với ông Nh là hoàn toàn có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Th. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho bà Th được ly hôn với ông Nh.

[2.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống bà Th và ông Nh có 01 người con chung tên là Trần Lý Nhã V, sinh ngày 27/7/2020. Hiện nay, cháu V đang sống chung với bà Th. Tại đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 11 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bà Th yêu cầu được nuôi con chung tên là Trần Lý Nhã V, sinh ngày 27/7/2020 cho đến khi thành niên, không yêu cầu ông Nh cấp dưỡng nuôi con. Đối với bị đơn là ông Trần Văn Nh đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về nội dung yêu cầu của bà Th, nhưng ông Nh không có văn bản trả lời về nội dung yêu cầu của bà Th. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ khi bà Th và ông Nh sống ly thân cho đến nay thì cháu V sống chung với bà Th. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Trần Lý Nhã V, sinh ngày 27/7/2020 cho bà Th nuôi dưỡng đến khi thành niên, do bà Th không yêu cầu ông Nh phải cấp dưỡng nuôi con, nên ông Nh không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho ông Nh, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Th phải chịu nghĩa vụ án phí đối với vụ án hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng; Ông Nh không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và Lệ phí; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Th.

1. Về hôn nhân: Xử cho bà Lý Thị Th được ly hôn với ông Trần Văn Nh.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Lý Nhã V, sinh ngày 27/7/2020 cho bà Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi cháu V thành niên. Ông Nh không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho ông Nh, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lý Thị Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình, nhưng bà Th được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002003 ngày 14 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà Th đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm; Ông Trần Văn Nh không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Lý Thị Th và ông Trần Văn Nh có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về