Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 27/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 23 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý: 192/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 70/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị Ngọc H, sinh năm 1981; nơi cư trú: tổ Z, ấp 2Y xã X, huyện B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1972; nơi cư trú: tổ Z, ấp Y, xã X, huyện B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai nguyên đơn bà Trịnh Thị Ngọc H trình bày:

Bà H và ông C tự nguyện sống chung và tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Q (nay là huyện B), tỉnh Bình Dương vào ngày 28 tháng 7 năm 2004 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 73/04, quyển số 01. Sau khi kết hôn, bà H và ông C sinh sống tại tổ Z, ấp Y, xã X, huyện B, tỉnh Bình Dương. Quá trình sống chung, bà H và ông C sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do tính tình vợ chồng không hợp nhau, ông C thường xuyên uống rượu dẫn đến vợ chồng nhiều lần xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Từ đó, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nhiều hơn, không có tiếng nói chung trong gia đình, không còn yêu thương nhau và không còn tin tưởng nhau trong cuộc sống. Năm 2017 bà H có nộp đơn ra Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn, nhưng sau đó bà H rút đơn về để vợ chồng đoàn tụ sống chung. Tuy nhiên, ông C vẫn không thay đổi tính tình. Do mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông C.

Về con chung: Bà H và ông C có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Kim C, sinh ngày 31 tháng 3 năm 2005 và Nguyễn Văn Phi L, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2012. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được nuôi 02 con chung, bà H không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H và ông C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chứng cứ nguyên đơn cung cấp để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện gồm: Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính). Bà H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Tòa án không tống đạt trực tiếp được các văn bản tố tụng cho ông C do ông C thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú. Theo kết quả xác minh tại Công an xã X, huyện B, tỉnh Bình Dương được biết: ông C có đăng ký thường trú tại tổ Z, ấp Y, xã X, huyện B, tỉnh Bình Dương (Bút lục số 38). Tòa án tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông C theo hình thức niêm yết công khai tại nơi cư trú của ông C, trụ sở Ủy ban nhân dân xã X, huyện B, tỉnh Bình Dương và trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, ông C không gửi văn bản trình bày ý kiến của bị đơn về việc bà H yêu cầu ly hôn và cũng không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử.

Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông C ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại nơi cư trú: bà H và ông C là vợ chồng, quá trình chung sống tại địa phương, bà H và ông C thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, ông C thường xuyên uống rượu, không quan tâm chăm sóc gia đình, vợ con (Bút lục số 27).

Tại phiên tòa: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ vào các Điều 55, 57 và 58 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định:

[1] Về tố tụng: bà H khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông C nên quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; ông C có nơi cư trú tại tổ Z, ấp Y, xã X, huyện B, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn là bà H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử nhưng bị đơn vẫn vắng mặt, cố tình không đến Tòa án làm việc là chưa thực hiện đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định pháp luật. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xét xử vắng mặt, nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại các Điều 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: bà H và ông C tự nguyện kết hôn vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Q (nay là huyện B), tỉnh Bình Dương ngày 28 tháng 7 năm 2004 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 73/04, quyển số 01, quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông C là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà H yêu cầu ly hôn với ông C với lý do trong cuộc sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, ông C thường xuyên uống rượu, không quan tâm chăm sóc gia đình, vợ con.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương nơi nguyên đơn và bị đơn cư trú được biết: bà H và ông C là vợ chồng, quá trình chung sống tại địa phương, bà H và ông C thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, ông C thường xuyên uống rượu, không quan tâm chăm sóc gia đình, vợ con (Bút lục 27).

Xét thấy, bà H và ông C phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình, mục đích sống chung không có ý nghĩa. Bà H và ông C không có điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà H đối với ông C là có căn cứ để chấp nhận và phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung: bà H và ông C có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Kim C, sinh ngày 31 tháng 3 năm 2005 và Nguyễn Văn Phi L, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2012. Xét thấy, cháu C và cháu L hiện nay đang sinh sống ổn định với bà H; cháu C và cháu L có nguyện vọng ở chung với bà H. Do đó, tiếp tục giao cháu C và cháu L cho bà H trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu C và cháu L thành niên là chính đáng và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, bà H không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở, phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình: nguyên đơn phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58 và 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trịnh Thị Ngọc H đối với bị đơn ông Nguyễn Văn C về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về hôn nhân: bà Trịnh Thị Ngọc h được ly hôn với ông Nguyễn Văn c.

Về con chung: giao cháu Nguyễn Ngọc Kim C, sinh ngày 31 tháng 3 năm 2005 và Nguyễn Văn Phi L, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2012 cho bà Trịnh Thị Ngọc H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà H không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Văn C có quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình: Bà Trịnh Thị Ngọc H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ hết vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo biên lai thu tiền số AA/2021/0009234 ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 27/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về