Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2022 VỀ Y HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 608/2021/TLST- HNGĐ ngày 24-6-2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08-2-2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08-02-2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23-02-2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1985. (Xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Lê Xuân Đ, sinh năm: 1982. (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Số 935/7/25F đường B, Phường M, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị T và anh Đ là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Nhuận, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 42/2009 ngày 22-9-2009, kết hôn trên cơ sở tự nguyện.

Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được thời gian đầu. Sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hiểu nhau, ngoài ra do anh Đ không tu chí làm ăn, ham chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Chị T nhiều lần khuyên bảo nhưng anh Đ không nghe, không thay đổi khiến cuộc sống vợ chồng ngột ngạt, không hạnh phúc. Nay Chị T không còn tình cảm với anh Đ, nên Chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho Chị và anh Đ được ly hôn.

Về con chung: Chị T và anh Đ có hai con chung là cháu Lê Hoài T, sinh ngày 27-11-2009 và cháu Lê Xuân L, sinh ngày 11-9-2015. Chị T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi hai con chung là cháu T, L, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

2. Đối với bị đơn là anh Lê Xuân Đ: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Đ đến Tòa án làm việc nhưng anh Đ không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành xác minh địa chỉ của anh Đ tại Công an Phường 10, thành phố Vũng Tàu thì anh Đ có trú tại số 935/7/25F đường Bình Giã, Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng đối với anh Đ theo quy định pháp luật.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đầy đủ và đúng các thủ tục tố tụng. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt, bị đơn đã được được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên xét xử vắng mặt là đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định giữa Chị T và anh Đ có mâu thuẫn, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, Chị T không còn tình cảm với anh Đ. Chị T và anh Đ có hai con chung là cháu Lê Hoài T, sinh ngày 27-11-2009 và cháu Lê Xuân L, sinh ngày 11-9-2015, Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai cháu T, L điều này phù hợp với nguyện vọng của cháu T, Chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận cho Chị T và anh Đ được ly hôn, về con chung Chị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là cháu T, L, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị T khởi kiện về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” với bị đơn anh Lê Xuân Đ, có địa chỉ tại 935/7/25F đường B, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được xác định đây là vụ án hôn nhân gia đình có quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Đối với nguyên đơn Chị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị T. Đối với bị đơn anh Đ Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Đ tự nguyện kết hôn và được UBND xã Phú Nhuận, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 42/2009 ngày 22-9-2009 nên là hôn nhân hợp pháp.

[2.1] Chị T trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đ không lo làm ăn, ham chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần ảnh hưởng kinh tế gia đình nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, vợ chồng không hạnh phúc. Chị T nhiều lần khuyên nhủ, động viên và cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng anh Đ không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn kéo dài và ngày càng trầm trọng hơn.

[2.2] Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân giữa Chị T và anh Đ được thể hiện tại “Biên bản xác minh” ngày 13- 01-2022 có nội dung: Chị T và anh Đ sống kín tiếng nên địa phương nơi vợ chồng chị T, anh Đ sinh sống không biết được vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn không. Qua nội dung xác minh nêu trên mặc dù không thể hiện được việc vợ chồng chị T, anh Đ có xảy ra mâu thuẫn hay không nhưng việc Chị T khởi kiện yêu cầu khởi kiện ly hôn và không còn tình cảm với anh Đ cho thấy Chị T không mong muốn duy trì mối quan hệ hôn nhân với anh Đ. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh Đ vắng mặt nên không lấy được lời khai của anh Đ, tuy nhiên anh Đ, Chị T vẫn sống chung nhà, anh Đ biết Chị T yêu cầu khởi kiện ly hôn và được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng anh Đ không đến Tòa làm việc điều này cho thấy anh Đ không tha thiết hàn gắn tình cảm vợ chồng để gia đình đoàn tụ. Từ đó thấy rằng cuộc sống chung vợ chồng giữa Chị T và anh Đ không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được và nay Chị T không còn tình cảm với anh Đ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho Chị T ly hôn với anh Đ.

[3] Xét yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con chung của chị T: Chị T và anh Đ có hai con chung là cháu Lê Hoài T, sinh ngày 27-11-2009 và cháu Lê Xuân L, sinh ngày 11-9-2015. Chị T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T, L là phù hợp với nguyện vọng của cháu T và Chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử chấp nhận Chị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu T, cháu L, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị T phải chịu số tiền là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Lê Xuân Đ ly hôn.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai cháu Lê Hoài T, sinh ngày 27-11-2009 và cháu Lê Xuân L, sinh ngày 11-9-2015, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Đ được quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001119 ngày 24-6-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên, các đương sự có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về