Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 216/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 216/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 272/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 192/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2022, G các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Văn TH, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn KH1, xã QT, huyện AD, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị PH, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn G, xã QT, huyện TN, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 6 năm 2022 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Phạm Văn TH trình bày:

Về hôn nhân: Anh Phạm Văn TH và chị Nguyễn Thị PH kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 21 tháng 6 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã QT, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Sau khi cưới vợ chồng về thôn Hạ Kiều 1, xã QT chung sống. Quá trình chung sống của vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2013 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp. Do mâu thuẫn nên chị PH bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xã QT, huyện TN, thành phố Hải Phòng sống ly thân từ đó cho đến nay, không quan tâm gì đến con chung. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên sâu sắc, trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ nên anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với chị PH.

Về con chung: Anh TH trình bày anh và chị PH có 01 con chung tên là Phạm Văn Đông sinh ngày 20 tháng 10 năm 2012, từ khi ly thân đến nay là là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con. Khi ly hôn, anh đề nghị được tiếp tục trực tiếp nhận nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung để anh và chị PH tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh TH trình bày anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị PH đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về việc kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản gửi đến Tòa án ghi ý kiến trình bày quan điểm về việc anh Phạm Văn TH xin ly hôn và giải quyết về con chung khi ly hôn, về tài sản chung vợ chồng.

Biên bản xác minh ngày 08 tháng 8 năm 2022 tại Ủy ban nhân dân xã và Công an xã QT, huyện TN, thành phố Hải Phòng thể hiện: Chị Nguyễn Thị PH cư trú tại thôn G, xã QT, huyện TN, Hải Phòng kết hôn với anh Phạm Văn TH vào năm 2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chuyển về huyện AD, thành phố Hải Phòng chung sống cùng gia đình nhà chồng nhưng đến năm 2013 chị PH lại trở về địa PH sinh sống từ đó cho đến nay, không thấy anh TH và con chung của chị PH, anh TH về sinh sống cùng. Hiện nay chị Hương đang sinh sống cùng với mẹ đẻ là bà Bùi Thị Thu tại thôn G, xã QT, huyện TN, Hải Phòng, chị PH cũng đã có cuộc sống gia đình riêng. Nay anh TH xin ly hôn chị PH đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định; Về con chung: Có 01 con chung tên là Phạm Văn Đông sinh năm 2012; Về tài sản chung: Đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của đương sự.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, đương sự chấp hành pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn G anh Phạm Văn TH và chị Nguyễn Thị PH; về con chung: Giao cho anh Phạm Văn TH trực tiếp nuôi 01 con chung tên là Phạm Văn Đông sinh ngày 20/10/2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là anh Phạm Văn TH vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên toà không có lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân G anh Phạm Văn TH và chị Nguyễn Thị PH đã được xác lập là hợp pháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 55 ngày 21 tháng 6 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã QT, huyện AD, thành phố Hải Phòng. Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa PH thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, từ năm 2013 mâu thuẫn trở nên sâu sắc, trầm trọng không thể hàn gắn tình cảm được, do mâu thuẫn vợ chồng nên anh TH và chị PH đã sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Anh TH yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn G anh TH và chị PH.

[3]. Về con chung: Anh TH và chị PH có 01 con chung tên là Phạm Văn Đông sinh ngày 20 tháng 10 năm 2012. Khi ly hôn, anh TH đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con chung. Xét thấy, anh TH đang trực tiếp nuôi con chung vẫn ổn định, con chung phát triển bình thường và được đảm bảo tốt về mọi mặt, anh TH có đủ điều kiện, khả năng chăm sóc nuôi dạy các con chung. Mặt khác con chung có nguyện vọng tiếp tục muốn ở với bố đẻ. Do vậy, cần giao con chung cho anh TH tiếp tục trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh TH đề nghị để anh và chị PH tự thoả thuận giao nhận cho nhau; chị PH không có trình bày ý kiến và quan điểm phản hồi gì khác, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Anh TH không yêu cầu Tòa án giải quyết; chị PH không có trình bày quan điểm phản hồi gì khác, không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Anh TH phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6]. Về quyền kháng cáo: Anh TH và chị PH có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 và các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho anh Phạm Văn TH được ly hôn chị Nguyễn Thị PH.

2. Về con chung: Giao cho anh Phạm Văn TH trực tiếp nuôi con chung tên là Phạm Văn Đông sinh ngày 20 tháng 10 năm 2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Phạm Văn TH không yêu cầu Tòa án giải quyết và chị Nguyễn Thị PH không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Anh Phạm Văn TH không yêu cầu Tòa án giải quyết và chị Nguyễn Thị PH không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Anh Phạm Văn TH phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008097 ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN, thành phố Hải Phòng. Anh Phạm Văn TH đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 216/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:216/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về