Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 188/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 188/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 306/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đậu Thị T, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn 8, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Văn Tr, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn 8, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Đậu Thị T là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị kết hôn với anh Lê Văn Tr trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 22 tháng 02 năm 2010. Sau lễ cưới, chị T và anh Tr về chung sống cùng nhau tại thôn 8, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận, đến năm 2017 giữa chị và anh Tr đã phát sinh mâu thuẫn, nhưng được hai bên gia đình động viên hòa giải nên vợ chồng vẫn chung sống cùng nhau. Đến tháng 7 năm 2021 thì mâu thuẫn trở nên căng thẳng. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, kinh tế gia đình không có sự thống nhất, chị T đi làm về muộn nên anh Tr nảy sinh nghi ngờ và đã có những lời chửi bới, xúc phạm chị. Cuộc sống chung trở nên mệt mỏi, chị đối với anh Tr không còn sự quan tâm, chăm sóc và yêu thương. Gia đình đều đã động viên, nhưng mâu thuẫn không được cải thiện. Đến nay, chị T xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh Tr nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tr. Chị và anh Tr có 01 con chung tên Lê Tuấn K, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011. Khi ly hôn, chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tự thỏa thuận với anh Tr về việc cấp dưỡng nuôi con. Chị và anh Tr không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai, anh Lê Văn Tr trình bày, thống nhất với lời khai của chị Đậu Thị T về thời gian và điều kiện kết hôn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo anh Tr là do từ khi chị T lên làm quản lý tại Công ty, thu nhập cao hơn nên có thái độ không tôn trọng anh. Mặt khác, vợ chồng kết hôn đã lâu nhưng vẫn chưa có nhà, đất riêng nên chị T nảy sinh tâm lý chán nản, dẫn đến tình cảm thờ ơ, lạnh nhạt. Vợ chồng có xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Chị T có đơn xin ly hôn với anh, quan điểm của anh là mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nuôi dạy con cái. Tại phiên tòa, do nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên anh Tr trình bày đồng ý ly hôn với chị T. Về con chung, trường hợp vợ chồng ly hôn, anh Tr đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Tuấn K và không đề nghị chị T cấp dưỡng nuôi con. Anh và chị T không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của con chung, cháu Lê Tuấn K trình bày nguyện vọng được ở cùng mẹ cháu.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, 35, 39, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận đề nghị của nguyên đơn, cho chị Đậu Thị T được ly hôn với anh Lê Văn Tr; đề nghị giao con Lê Tuấn K cho chị Đậu Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về yêu cầu của chị Đậu Thị T ly hôn với anh Lê Văn Tr Chị Đậu Thị T và anh Lê Văn Tr kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng và xác định không còn khả năng đoàn tụ nên chị T đề nghị được ly hôn với anh Tr. Nhận thấy, lời khai của các bên đương sự đều thống nhất thể hiện mâu thuẫn vợ chồng là có tồn tại, nguyên nhân do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung về vấn đề kinh tế, không có sự đồng lòng, chia sẻ, khắc phục khó khăn và xây dựng gia đình. Mặt khác, anh Tr nghi ngờ vô cớ dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Tình cảm ngày càng thờ ơ, lạnh nhạt, không quan tâm đến nhau. Anh Tr mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng cũng không có những việc làm cụ thể, thiện chí để chị T thay đổi quan điểm. Quá trình giải quyết vụ án, tòa án và gia đình đã nhiều lần hòa giải nhưng các đương sự không thống nhất được với nhau. Tại phiên tòa, chị T vẫn kiên quyết đề nghị được ly hôn với anh Tr, anh Tr cũng đồng ý ly hôn. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh Tr đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T xin ly hôn anh Tr.

[2] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Đậu Thị T và anh Lê Văn Tr có 01 con chung tên Lê Tuấn K, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011. Khi ly hôn, chị T và anh Tr đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi thì cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, về điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung giữa chị T và anh Tr cơ bản ngang nhau. Chị T và anh Tr đều làm công nhân tại khu công nghiệp Vsip tại huyện Thủy Nguyên, có thu nhập ổn định. Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai ngày 23 tháng 8 năm 2021, cháu Lê Tuấn K trình bày nguyện vọng mong muốn được ở cùng mẹ là chị Đậu Thị T. Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con ….; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Do đó, Hội đồng xét xử giao cho chị Đậu Thị T trực tiếp nuôi con tên Lê Tuấn K là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị Đậu Thị T đề nghị tự thỏa thuận với anh Tr về việc cấp dưỡng nuôi con và không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh Lê Văn Tr không có đề nghị về việc cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung, chị Đậu Thị T và anh Lê Văn Tr thống nhất không có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí, chị Đậu Thị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đậu Thị T ly hôn anh Lê Văn Tr.

2. Về con chung: Giao cho chị Đậu Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Tuấn K, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: Chị Đậu Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0016023 ngày 20/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Đậu Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Chị Đậu Thị T, anh Lê Văn Tr có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 188/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:188/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về