Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 144/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 144/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON 

Ngày 09 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 121/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị T, sinh năm 1979; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Thôn 5, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Q, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn Việt Khê, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 26 tháng 02 năm 2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị T trình bày:

Chị kết hôn với anh Q vào năm 1998 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn Việt Khê, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Q đã được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2013 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Q không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Vũ Thị Thanh, sinh ngày 16 tháng 4 năm 1999 và Vũ Thị Thúy, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2006. Hiện nay hai con chung đang sinh sống cùng với anh Vũ Văn Qủa và mẹ đẻ anh Q là bà Vũ Thị Gái tại thôn Việt Khê, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng. Khi ly hôn chị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên Vũ Thị Thúy cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, còn con chung tên Vũ Thị Thanh đã thành niên và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu càu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Q có mặt tại phiên tòa nhưng anh Q vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là chị T trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Q không tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T. Về hôn nhân: Cho chị T được ly hôn anh Q. Về con chung: Giao con chung tên Vũ Thị Thúy, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Q có nơi cư trú tại thôn Việt Khê, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng, Toà án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để anh Q có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T nhưng anh Q vắng mặt không có lý do. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện anh Q có đăng ký hộ khẩu thường trú và vẫn sinh sống tại thônViệt Khê, huyện N, thành phố Hải Phòng. Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Q có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T nhưng anh Q vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Vì vậy căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng vào ngày 11 tháng 3 năm 1998 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị T và anh Q chung sống hoà thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị T trình bày do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Nay chị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Q không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q. Bị đơn là anh Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai nhưng anh Q vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Q có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T nhưng anh Q vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện quá trình vợ chồng chị T và anh Q chung sống hòa thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tình vợ chồng không hòa hợp. Vợ chồng chị T và anh Q đã sống ly thân nhau từ năm 2013 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị T và anh Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác anh Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh Q vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T về việc xin ly hôn anh Q, cho chị T được ly hôn anh Q.

[3] Về con chung: Chị T và anh Q có 02 con chung tên Vũ Thị Thanh, sinh ngày 16 tháng 4 năm 1999 và Vũ Thị Thúy, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2006. Khi ly hôn chị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên Vũ Thị Thúy, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2006 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, còn con chung tên Vũ Thị Thanh đã thành niên và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Q không đến Tòa án trình bày ý kiến về con chung. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng thì cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện con chung tên Vũ Thị Thanh đã thành niên và có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết, còn con chung tên Vũ Thị Thúy đang ở cùng với anh Q tại thôn Việt Khê, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng. Xét chị T và anh Q đều có điều kiện và khả năng nuôi con nhưng anh Q không có ý kiến về con chung, mặt khác con chung tên Vũ Thị Thúy có nguyện vọng được ở cùng với mẹ là chị T. Vì vậy căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giao con chung tên V, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Q chưa có ý kiến về tài sản chung. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Cho chị T được ly hôn anh Q.

2. Về con chung: Giao con chung tên V, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015804 ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hải Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 144/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:144/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về