Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 139/2022/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2022, về việc “Ly hôn, Tranh chấp về nuôi con”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/3/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan Văn H – Sinh năm 1970.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T – Sinh năm 1976.

Cùng địa chỉ: Thôn A, xã H, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Đương sự có mặt: Ông Phan Văn H, bà Nguyễn Thị Thanh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 23/02/2022, bản khai của nguyên đơn ông Phan Văn H khai:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Thị Thanh T cưới nhau vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 05/01/1998. Việc cưới nhau là do hai bên tự tìm hiểu trong thời gian khoảng 03 năm. Sau khi cưới vợ chồng ông sống tại thôn 4, xã Hàm Đức. Vợ chồng sống hạnh phúc từ khi cưới đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do trong cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không cùng quan điểm sống, thường xuyên cải vã nhau. Vợ chồng ông vẫn còn chung sống với nhau nhưng không có quan hệ tình cảm từ khoảng tháng 07/2020 cho đến nay. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và nguyện vọng của ông là yêu cầu xin được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T khai:

Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng cưới nhau năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 05/01/1998. Việc cưới nhau là do hai bên tự tìm hiểu trong thời gian khoảng 01 năm. Sau khi cưới vợ chồng bà sống thôn 4, xã Hàm Đức. Vợ chồng sống hạnh phúc từ khi cưới đến tháng 07/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông Hải ghen tuông, đánh đập đuổi bà đi ra khỏi nhà sau đó ông Hải năn nỉ bà về ở lại, nhưng các mâu thuẫn bà đều bỏ qua hết để vợ chồng chung sống hòa thuận. Vợ chồng bà vẫn còn chung sống với nhau và vẫn còn quan hệ tình cảm bình thường. Bà xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn và bà không đồng ý theo yêu cầu ly hôn của ông Hải. Còn ông Hải cương quyết ly hôn thì Tòa án cứ giải quyết theo ý kiến ông Hải, chứ bà không đồng ý thuận tình ly hôn mặc dù vợ chồng bà không thể đoàn tụ được, thường xuyên cãi vả, đánh nhau.

Về con chung: Ông Phan Văn H, bà Nguyễn Thị Thanh T thống nhất có 04 con chung tên Phan Văn Thắng – Sinh ngày 23/12/1998, Phan Văn Đức – Sinh ngày 28/4/2001, Phan Văn Bảo – Sinh ngày 10/12/2002 và Phan Thị Hồng Thắm – Sinh ngày 10/7/2012. Hiện nay các con đang ở chung với ông, bà. Đối với các con tên Phan Văn Thắng, Phan Văn Đức, Phan Văn Bảo đã trưởng thành ông, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Phan Văn H đồng ý để bà Nguyễn Thị Thanh T được quyền nuôi dưỡng con chung tên Phan Thị Hồng Thắm – Sinh ngày 10/7/2012.

Bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Bà yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Phan Thị Hồng Thắm – Sinh ngày 10/7/2012 và yêu cầu ông Phan Văn H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng.

Về tài sản và nợ: Ông Phan Văn H, bà Nguyễn Thị Thanh T không yêu cầu Tòa giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con với bị đơn. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con. Bị đơn có địa chỉ tại thôn 4, xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Phan Văn H và Nguyễn Thị Thanh T tổ chức lễ cưới vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 05/01/1998. Đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại các Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Phan Văn H và Nguyễn Thị Thanh T sống hạnh phúc được từ khi cưới đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn.

Theo ông Phan Văn H nguyên nhân mâu thuẫn là do trong cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không cùng quan điểm sống, thường xuyên cãi vả nhau.

Theo bà Nguyễn Thị Thanh T nguyên nhân mẫu thuẫn là do ông Hải ghen tuông, đánh đập đuổi bà ra khỏi nhà, trong quá trình giải quyết vụ án bà yêu cầu đoàn tụ, còn ông Hải cương quyết ly hôn thì Tòa án cứ giải quyết theo ý kiến ông Hải, chứ bà không đồng ý thuận tình ly hôn mặc dù vợ chồng bà không thể đoàn tụ được, thường xuyên cãi vả, đánh nhau.

Theo Biên bản giao, nhận tài liệu ngày 12/4/2022 có ghi nhận ý kiến của bà Nguyễn Thị Thanh T, bà Thúy trình bày: “Tôi không chịu đựng được hành vi bạo lực gia đình của ông Hải, do nhiều lần đánh đập tôi vô cớ do ghen tuông, Công an xã Hàm Đức nhiều lần can thiệp. Tôi đồng ý ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Các bản ảnh tôi nộp để chứng minh ông Hải đánh đập tôi, đập phá tài sản của gia đình”.

Vợ chồng ông, bà vẫn còn chung sống với nhau nhưng không có quan hệ tình cảm từ khoảng tháng 07/2020 cho đến nay.

Từ các mâu thuẫn do các đương sự trình bày trên Hội đồng xét xử nhận định quan hệ hôn nhân giữa ông Phan Văn H và Nguyễn Thị Thanh T thực tế đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục cuộc sống chung được.

Do vậy, yêu cầu được ly hôn của ông Phan Văn H là có căn cứ nên chấp nhận.

- Về con chung: Ông Phan Văn H và Nguyễn Thị Thanh T thống nhất có 04 con chung tên Phan Văn Thắng – Sinh ngày 23/12/1998, Phan Văn Đức – Sinh ngày 28/4/2001, Phan Văn Bảo – Sinh ngày 10/12/2002 và Phan Thị Hồng Thắm – Sinh ngày 10/7/2012. Hiện nay con tên Phan Thị Hồng Thắm đang ở với ông, bà.

Đối với các con tên Phan Văn Thắng, Phan Văn Đức, Phan Văn Bảo đã trưởng thành ông, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, ông Phan Văn H đồng ý để bà Nguyễn Thị Thanh T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con tên Phan Thị Hồng Thắm; ông Hải không cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét yêu cầu giải quyết việc nuôi con, Hội đồng xét xử thấy rằng: Con tên Phan Thị Hồng Thắm có nguyện vọng được ở với bà Nguyễn Thị Thanh T, hàng ngày bà Thúy là người chăm sóc, giáo dục, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Thanh T đồng ý tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Phan Thị Hồng Thắm. Vì vậy, giao con chung tên Phan Thị Hồng Thắm cho bà Thúy được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Thanh T yêu cầu ông Phan Văn H cấp dưỡng nuôi con chung tên Phan Thị Hồng Thắm mỗi tháng 2.000.000đồng.

Xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà Nguyễn Thị Thanh T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Ông Phan Văn H không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập hàng tháng không ổn định, hiện đang mắc nhiều bệnh do đó mức cấp dưỡng nuôi con mà bà Thúy yêu cầu không phù hợp với mức thu nhập của ông Hải. Do đó, Tòa án chỉ chấp nhận mức cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đồng.

- Về tài sản chung: Ông Phan Văn H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ngày 12/4/2022, bà Nguyễn Thị Thanh T nộp Đơn yêu cầu giải quyết đề ngày 04/4/2022 về việc yêu cầu giải quyết tài sản chung theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của bà Thúy trong vụ án này. Bà Nguyễn Thị Thanh T có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng bà bằng một vụ án khác.

- Về nợ chung: Ông Phan Văn H, bà Nguyễn Thị Thanh T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Ông Phan Văn H phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Khoản 5, Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Bà Nguyễn Thị Thanh T không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 200, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Khoản 5, Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Phan Văn H về việc yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T.

Ông Phan Văn H được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T.

2. Về con chung:

Giao con chung tên Phan Thị Hồng Thắm – Sinh ngày 10/7/2012 cho bà Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Phan Văn H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con tên Phan Thị Hồng Thắm – Sinh ngày 10/7/2012 mỗi tháng 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng) kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật cho đến khi người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ông Phan Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

Ông Phan Văn H phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, được khấu trừ số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0006016 ngày 03/03/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên cần phải nộp thêm số tiền 300.000đồng.

Bà Nguyễn Thị Thanh T không chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con.

4. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/4/2022).

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về