Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1984. Địa chỉ cư trú: ấp B, xã B, thành phố HN, tỉnh ĐT. Có đơn xin vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1976. Địa chỉ cư trú: ấp L, xã L, huyện HN, tỉnh ĐT. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/01/2022 trong quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y, trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T cưới nhau không nhớ ngày tháng năm, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện HN, tỉnh ĐT. Hôn nhân do tự mai mối, sau khi cưới thì vợ chồng sống bên gia đình nhà chồng. Cuộc sống lúc đầu cũng ổn. Không nhớ ngày tháng năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T thường xuyên uống rượu say về chửi mắng, đánh chị. Đầu năm 2019 chị lên Thành phố Hồ Chí Minh làm, còn anh T vẫn sống ở quê và vợ chồng không còn sống chung từ đầu năm 2019 cho đến nay. Từ lúc không sống chung thì vợ chồng không có gặp nhau để hàn gắn tình cảm, anh T có gọi điện thoại cho chị vài lần nhưng chỉ chửi mắng chị chứ không có năn nỉ, anh T còn nói chị về làm thủ tục ly hôn đi rồi muốn đi đâu thì đi. Ngoài ra, vợ chồng không còn mâu thuẫn nào khác. Nay tình cảm vợ chồng không còn chị yêu cầu ly hôn với anh Lê Văn T.

2. Về nuôi con chung: Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Lê Đức N, sinh ngày 06/3/2006 và thống nhất giao con chung Lê Thị Xung Đ, sinh ngày 06/6/2004 cho anh T nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con. Đức N sống chung với chị từ năm 2019 cho đến nay, còn con chung Xung Đ thì ở với anh T cũng từ năm 2019, hai con chung vẫn tới lui với cha mẹ bình thường. Khi chị đi làm về quê thì điện cho con gái Xung Đ đến nhà cha mẹ ruột chị rồi cho tiền con chung chứ không có đến nhà thăm con, vì sợ anh T gặp thì chửi chị. Chị làm công thu nhập 8.000.000đ, trừ chi phí sinh hoạt cá nhân thì đủ hai mẹ con chị sinh sống, còn anh T làm thuê, thu nhập mỗi ngày bao nhiêu chị không biết. Khi con chung Đức N ở cùng chị thì anh T không có gởi tiền cho chị để nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Chị và anh T có căn nhà cấp 4 và nền nhà ở ấp L, xã L, huyện HN, tỉnh ĐT. Ngoài ra, vợ chồng không còn tài sản nào khác. Khi làm đơn khởi kiện chị trình bày tài sản chung không có, vì chị không tranh chấp tài sản chung là nhà và đất, chị thống nhất để lại tài sản chung nhà và đất cho anh T và con chung Xung Đ sở hữu nên ghi tài sản chung là không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị và anh T chung sống với nhau không có thiếu nợ ai cũng không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình tiến hành tố tụng: Bị đơn anh Lê Văn T đã được Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh T vẫn không có mặt và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cho Tòa án. Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/3/2022 anh T, trình bày: Anh là chồng chị Y. Anh và chị Y cưới nhau khoảng 18 năm trước, có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới cất nhà ở riêng sát vách nhà mẹ ruột anh. Khoảng 03 năm trước vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị Y đánh bài 6 lá, anh khuyên nhủ nhiều lần nhưng không được nên vợ chồng cải nhau và anh có đánh chị Y một bạt tay và có nói chị Y có đi thì đi luôn. Chị Y bỏ về nhà cha mẹ ruột khoảng năm 2018 cho đến nay. Từ khi không còn sống chung thì anh có qua nhà năn nỉ hai lần nhưng chị Y không chịu về nay chị Y yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn. Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung tên Lê Thị Xung Đ, sinh ngày 06/6/2004 và Lê Đức N, sinh ngày 06/3/2006, anh thống nhất giao con chung Đức N cho chi chị Y tiếp tục nuôi dưỡng, anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Xung Đ, không ai cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Vợ chồng có tài sản là nhà và nền nhà ở ấp L nhưng anh và chị Y đã tự thỏa thuận xong là anh được sở hữu nhà nên tài sản chung anh không yêu cầu hay tranh chấp gì hết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, không trình bày gì thêm.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án theo đúng các quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng chấp hành tốt nội quy phiên tòa. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Y được ly hôn với anh Lê Văn T. Về con chung: Giao con chung Lê Đức N, sinh ngày 06/3/2006 cho chị Nguyễn Thị Y tiếp tục nuôi dưỡng, giao con chung Lê Thị Xung Đ, sinh ngày 06/6/2004 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con, do không yêu cầu, tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không đề cập đến.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị Y có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự yêu cầu giải quyết ly hôn giữa chị với anh Lê Văn T. Hiện anh T đang cư trú tại ấp L, xã L, huyện HN, tỉnh ĐT nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện HN, tỉnh ĐT theo quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y, bị đơn anh Lê Văn T đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt chị Y, anh T theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Y và anh Lê Văn T được pháp luật công nhận. Vì, có đăng ký kết hôn, theo giấy chứng nhận kết hôn số 14, quyển số 01 ngày 29/01/2007 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện HN, tỉnh ĐT là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Xét, yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Y là có căn cứ để chấp nhận, vì trong quá trình chung sống chị Y, anh T đã có mâu thuẫn với nhau là có thật. Nhận thấy trong hôn nhân vợ chồng cần phải thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Tòa án đã tiến hành hòa giải cho chị Y, anh T đoàn tụ nhưng chị Y vẫn cương quyết ly hôn, vì vợ chồng chung sống không còn hạnh phúc và đã không còn sống chung với nhau từ năm 2019 cho đến nay. Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/3/2022 anh Lê Văn T trình bày “khoảng 03 năm trước vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị Y đánh bài 6 lá, anh khuyên nhủ nhiều lần nhưng không được nên vợ chồng cải nhau và anh có đánh chị Y một bạt tay và có nói chị Y có đi thì đi luôn. Chị Y bỏ về nhà cha mẹ ruột khoảng năm 2018 cho đến nay. Từ khi không còn sống chung thì anh có qua nhà năn nỉ hai lần nhưng chị Y không chịu về, nay chị Y yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn”. Đồng thời, anh T đã có đơn xin vắng mặt tại các phiên họp, phiên hòa giải và các phiên tòa cho thấy anh T không có thiện chí để hòa giải, hàn gắn tình cảm với chị Y. Hội đồng xét xử nhận thấy, hôn nhân giữa chị Y, anh T không thể hàn gắn được, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, việc chị Y yêu cầu ly hôn với anh T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Y được ly hôn với anh Lê Văn T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về việc nuôi con: Đối với con chung Lê Đức N, sinh ngày 06/3/2006 hiện đang sống cùng chị Y từ năm 2019 cho đến nay và có nguyện vọng được sinh sống cùng chị Y. Đối với con chung Lê Thị Xung Đ, sinh ngày 06/6/2004 hiện đang sinh sống cùng anh T cũng từ năm 2019 cho đến nay và cũng có nguyện vọng được sinh sống cùng anh T. Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/3/2022 anh T cũng thống nhất giao con chung Đức N cho chị Y nuôi dưỡng và anh T nuôi dưỡng con chung Xung Đ. Hội đồng xét xử nghĩ nên tiếp tục giao con chung Đức N cho chị Y được tiếp tục trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và giao con chung Xung Đ cho anh T được tiếp tục trực tiếp, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng là đảm bảo tốt về quyền lợi mọi mặt và phát triển bình thường của con chung là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Y, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Y, anh T tự nguyện không yêu cầu phù hợp với Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Về quyền thăm nom con chung: Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[8] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Y và anh Lê Văn T thống nhất, trình bày, anh chị tự thỏa thuận xong nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[9] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Y và anh Lê Văn T thống nhất, trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[10] Đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[11] Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y chịu 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo lai thu số 0003790 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HN là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Y. Cho chị Nguyễn Thị Y được ly hôn với anh Lê Văn T.

2. Về việc nuôi con:

2.1 Giao con chung Lê Đức N, sinh ngày 06/3/2006 cho chị Nguyễn Thị Y được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

2.2 Giao con chung Lê Thị Xung Đ, sinh ngày 06/6/2004 cho anh Lê Văn T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

2.3 Chị Nguyễn Thị Y, anh Lê Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Y, anh T tự nguyện không yêu cầu.

2.4 Về quyền thăm nom con chung: Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Y chịu 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo lai thu số 0003790 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HN 4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 31/3/2022). Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về