Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 356/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14-4-2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05-5-2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đào Thị Ngọc B, sinh năm 1989 (có mặt)

Bị đơn: Ông Nguyễn Hùng Q, sinh năm 1985 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22-12-2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Đào Thị Ngọc B trình bày:

Bà Đào Thị Ngọc B và ông Nguyễn Hùng Q chung sống với nhau từ năm 2012, hai bên gia đình có tổ chức cưới hỏi; vợ chồng có tìm hiểu nhau được thời gian khoảng 03 năm tiến đến hôn nhân; vợ chồng có đăng ký kết hôn vào ngày 23-6-2011 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2011, nguyên nhân do ông Nguyễn Hùng Q đam mê cờ bạc, cá độ bóng đá, số đề, cá độ cờ bạc trên mạng; gây nợ nhiều; Bà Đào Thị Ngọc B phải trả nợ cho ông Q nhiều lần; Bà Đào Thị Ngọc B có góp ý nhiều gắt, trầm trọng; vợ chồng không còn chung sống từ tháng 11-2021 cho đến nay; vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, bỏ mặc nhau muốn sống ra sao thì sống; Đến thời điểm hôm nay bà Đào Thị Ngọc B xác định không còn tình cảm yêu thương ông Nguyễn Hùng Q, tình cảm đã hết hoàn toàn; Vì vậy bà Đào Thị Ngọc B yêu cầu ly hôn theo ông Nguyễn Hùng Q, bà Đào Thị Ngọc B đã suy nghĩ kỹ, cương quyết ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Nguyễn Hoàng Kiều M, sinh 02-5-2012 và Nguyễn Hoàng Long P, sinh 01-01-2015; Kiều Mđang ở với ông Hùng; Long P hiện đang ở với bà Đào Thị Ngọc B . Ly hôn bà Đào Thị Ngọc B giao Nguyễn Hoàng Kiều M, sinh 02-5-2012 (cháu gái lớn) cho ông Nguyễn Hùng Q trực tiếp nuôi dưỡng; Bà Đào Thị Ngọc B nuôi con tên Nguyễn Hoàng Long P, sinh 01-01-2015 (con trai nhỏ); Không bên nào cấp dưỡng nuôi con.

Hiện nay bà Đào Thị Ngọc B làm công nhân may ở tỉnh Bình Dương, hàng tháng thu nhập bình quân khoảng 9.000.000đ, đủ khả năng nuôi con.

Ông Q không có nghề nghiệp gì cả.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết..

- Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn ông Nguyễn Hùng Q vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng.

- Tại phiên tòa bà Đào Thị Ngọc B vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tại phiên tòa phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng Bị đơn vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đã phân tích đánh giá tài liệu, chứng cứ, thực trạng hôn nhân của bà Đào Thị Ngọc B và ông Nguyễn Hùng Q, đề nghị: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đào Thị Ngọc B được ly hôn ông Nguyễn Hùng Q.

Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hoàng Kiều M, sinh 02-5-2012 cho ông Nguyễn Hùng Q trực tiếp nuôi dưỡng; Giao con chung tên Nguyễn Hoàng Long P, sinh 01-01-2015 cho bà Đào Thị Ngọc B trực tiếp nuôi dưỡng; Không bên nào cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] - Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn bà Đào Thị Ngọc B khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con đối với bị đơn ông Nguyễn Hùng Q, vì vậy Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn ông Nguyễn Hùng Q có địa chỉ tại thôn Phước Thiện 3, xã P, huyện N thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015.

[1.2] - Về sự vắng mặt của bị đơn ông Nguyễn Hùng Q: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn ông Nguyễn Hùng Q vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Đào Thị Ngọc B và ông Nguyễn Hùng Q tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện, tỉnh Ninh Thuận theo giấy chứng nhận kết hôn số 88, quyển số 01/2011 ngày 23-6- 2011; Hội đồng xét xử xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Đào Thị Ngọc B vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Hùng Q, vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt, trầm trọng, xa cách thời gian dài, không còn khả năng đoàn tụ.

Xét thấy: Nguyên nhân dẫn đến ly hôn do vợ chồng thường xuyên cãi vã gay gắt, xúc phạm nhau, ông Nguyễn Hùng Q đam mê cờ bạc, cá độ bóng đá, số đề, không quan tâm đến vợ con, vợ chồng không còn chung sống từ tháng 11- 2021 đến nay, không ai quan tâm đến ai, bỏ mặc nhau muốn sống ra sao thì sống, không còn khả năng đoàn tụ.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: Chính quyền địa phương có biết được mâu thuẫn vợ chồng bà B và ông Hùng; nguyên nhân do ông Hùng đam mê cờ bạc, cá độ bóng đá, số đề, không quan tâm đến vợ con. Hiện tại vợ chồng bà Đào Thị Ngọc B và ông Nguyễn Hùng Q không còn chung sống với nhau từ tháng 11-2021 đến nay, không còn khả năng đoàn tụ.

- Đối với bị đơn ông Nguyễn Hùng Q dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, các văn bản tố tụng, niêm yết công khai nhiều lần theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn cố tình không đến. Bị đơn ông Nguyễn Hùng Q vắng mặt xem như từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chứng tỏ yêu cầu khởi kiện ly hôn và lời khai của bà Đào Thị Ngọc B là có căn cứ.

Từ những chứng cứ nên trên, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn vợ chồng bà Đào Thị Ngọc B và ông Nguyễn Hùng Q đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đào Thị Ngọc B là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Nguyễn Hoàng Kiều M, sinh 02-5-2012 và Nguyễn Hoàng Long P, sinh 01-01-2015; NguyễnHoàng Kiều M đang ở với ông Q; Nguyễn Hoàng Long P hiện đang ở với bà Đào Thị Ngọc B. Ly hôn bà Đào Thị Ngọc B giao Nguyễn Hoàng Kiều M, sinh 02-5-2012 cho ông Nguyễn Hùng Q trực tiếp nuôi dưỡng; Bà Đào Thị Ngọc B nuôi con tên Nguyễn Hoàng Long P, sinh 01-01-2015; Không bên nào cấp dưỡng nuôi con.

Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi con của bà Đào Thị Ngọc B, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Đào Thị Ngọc B và ông Nguyễn Hùng Q đều là người trực tiếp chăm sóc con chung từ nhỏ đến nay; cháu Nguyễn Hoàng Kiều M đã được 10 tuổi, hiện đang ở với ông Q, có nguyện vọng xin được với cha là ông Nguyễn Hùng Q; cháu Nguyễn Hoàng Long P hiện đang ở với bà Đào Thị Ngọc B, có nguyện vọng xin được ở với mẹ là bà B; do đó phải tôn trọng ý kiến của con chung là có căn cứ. Vì vậy nên giao con chung tên Nguyễn Hoàng Kiều M cho ông Q trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung tên Nguyễn Hoàng Long P cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn bà Đào Thị Ngọc B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ.

[4] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đào Thị Ngọc B. Cho ly hôn giữa bà Đào Thị Ngọc B và ông Nguyễn Hùng Q.

2. Về con chung:

Giao con chung tên Nguyễn Hoàng Kiều M cho ông Nguyễn Hùng Q trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung tên Nguyễn Hoàng Long P cho bà Đào Thị Ngọc B trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí:

Bà Đào Thị Ngọc B phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0002186, ngày 29-12-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Bà Đào Thị Ngọc B đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn không có mặt tại phiên tòa, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về