Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 150/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 150/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 187/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị X, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn 3, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng Y, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn 3, xã G, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành hình phạt tại Đội 2, phân trại 3, Trại Giam Xuân Nguyên, Cục C10 - Bộ Công An; vắng mặt (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 25 tháng 5 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị X (nguyên đơn) khai:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị X và anh Nguyễn Trọng Y xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 24 ngày 05 tháng 12 năm 2005. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm. Anh Nguyễn Trọng Y thường xuyên vắng mặt, không quan tâm chăm sóc gia đình và có hành vi vi phạm pháp luật bị Tòa án kết án hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Đội 2, phân trại 3, Trại Giam Xuân Nguyên. Mâu thuân vợ chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị X nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Trọng Y.

Về con chung: Chị Lê Thị X khai chị và anh Nguyễn Trọng Y có 02 con chung là Nguyễn Thị T, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2007 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012. Hiện cả hai con đều do chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, chị Lê Thị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X khai chị và anh Y tự thỏa thuận và giao nhận với nhau, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lê Thị X khai chị và anh Nguyễn Trọng Y có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận, nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 11 tháng 7 năm 2022 ị đơn là anh Nguyễn Trọng Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Trọng Y và chị Lê Thị X kết hôn trên cở sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 05 tháng 12 năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc nhưng đến tháng 3 năm 2020 anh Y có hành vi vi phạm pháp luật và hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Đội 2, phân trại 3, Trại Giam Xuân Nguyên. Thời gian đầu, chị X có lên thăm hỏi anh Y nhưng khoảng tháng 3 năm 2022 chị X có thông báo với anh Y về việc ly hôn. Do anh Y đang chấp hành hình phạt tù không có thời gian để ở bên cạnh quan tâm chăm sóc vợ con được nên anh Y đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của chị X và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh Y và chị X được ly hôn.

Về con chung: Anh Nguyễn Trọng Y khai anh và chị X có 02 con chung là Nguyễn Thị T, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2007 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012. Hiện cả hai con chung đều đang do chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, anh đồng ý để chị X là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và hiện anh Y đang chấp hành hình phạt tù nên anh không có ý kiến gì.

Về việc chia tài sản: Anh Nguyễn Trọng Y khai anh và chị Lê Thị X không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y.

Về nội dung vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị X và anh Nguyễn Trọng Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị X và anh Y được ly hôn. Về con chung: Chị Lê Thị X và anh Nguyễn Trọng Y có 02 con chung là Nguyễn Thị T, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2007 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012. Hiện cả hai con chung đều đang do chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của các đương sự và nguyện vọng của con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Lê Thị X trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Nguyễn Thị T và Nguyễn Trọng N cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X không yêu cầu anh Y phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về tài sản chung: Anh Y khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, chị X khai vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết. nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Chị Lê Thị X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Bị đơn là anh Nguyễn Trọng Y có nơi cư trú tại thôn 3, xã G, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành hình phạt tại Đội 2, phân trại 3, Trại Giam Xuân Nguyên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn là chị Lê Thị X và bị đơn là anh Nguyễn Trọng Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị X và anh Nguyễn Trọng Y được xác lập vào năm 2005 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng thờ ơ lạnh nhạt. Do mâu thuẫn nên chị X và anh Y hiện đã sống ly thân. Chị X xin ly hôn, anh Y thừa nhận vợ chồng có tồn tại mâu thuẫn và mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả nên anh Y cùng đồng ý ly hôn. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị X và anh Y được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Lê Thị X và anh Nguyễn Trọng Y có hai con chung Nguyễn Thị T, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2007 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012, hiện cả hai đang sống cùng chị X. Khi ly hôn, chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện từ khi sống ly thân, chị X là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và nẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Mặt khác, cháu Nguyễn Thị T và Nguyễn Trọng N đều có nguyện vọng được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy giao cho chị Nguyễn Thị T và Nguyễn Trọng N Thu Hà được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Nguyễn Thị T và Nguyễn Trọng N đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Anh Nguyễn Trong Duy khai vợ chồng không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, chị Lê Thị X khai chị và anh Nguyễn Trọng Y có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[6] về án phí: Chị Lê Thị X phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 328 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14; xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị X và anh Nguyễn Trọng Y.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị X trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Thị T, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2007 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Lê Thị X phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007997 ngày 06 tháng 6 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Lê Thị X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Lê Thị X, anh Nguyễn Trọng Y vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 150/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:150/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về