Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PR, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại hội trường xử án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 264/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2022/QĐST- HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Yến V, sinh năm: 1993.( Có mặt)

Bị đơn: Ông Đỗ Ngọc T, sinh năm: 1991.( Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Khu phố 5, phường Đ, thành phố PR, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 29/4/2021, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Lê Thị Yến V trình bày:

Bà và ông Đỗ Ngọc T sau một thời gian tìm hiểu đã tiến đến hôn nhân tự nguyện, vợ chồng có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố PR, tỉnh Ninh Thuận theo giấy chứng nhận kết hôn số 200 ngày 25 tháng 11 năm 2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được 04 tháng thì xảy ra mâu thuẫn kéo dài đến nay. Nguyên nhân do tính tình không hợp, ông T không lo làm ăn, nghe lời bạn bè kích động về gây gỗ, chửi mắng, đánh đạp bà rất nhiều lần. Mỗi lần ông T say về bắt bà đưa tiền, bà không đưa, ông T chửi, đánh bà, đập đồ, đập hỏng 04 chiếc điện thoại của bà. Cha mẹ chồng biết mâu thuẫn vợ chồng nhưng cũng không khuyên giải được ông T. Vì muốn vợ chồng sống hạnh phúc để nuôi con nên bà nhiều lần khuyên nhủ ông T sửa đổi tính tình. Năm 2020, bà nộp đơn xin ly hôn ông T nhưng nghĩ thương con còn nhỏ, cố gắng nhẫn nhịn bỏ qua cho ông T lần nữa nên bà rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên, sau khi rút đơn, ông T không sửa đổi, vẫn tính nào tật nấy, vẫn uống rượu, gây gỗ và đánh bà, gây mất trật tự địa phương nên Công an phường đã làm việc với ông T. Tuy vợ chồng sống chung nhà, nhưng không quan tâm chăm sóc nhau, mạnh ai nấy sống. Nay tình cảm vợ chồng không còn, sống không có hạnh phúc nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Đỗ Ngọc T.

Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung tên Đỗ Lê Bảo Ng, sinh ngày 21/11/2017. Hiện con đang ở với bà. Khi ly hôn, bà xin nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng uôi con. Do ông T là tài xế nên thường vắng nhà, không có thời gian chăm sóc con, vì vậy bà không giao con cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà làm nghề chăm trẻ, dạy trẻ tại nhà thu nhập bình quân mỗi tháng 10.000.000 đồng, đủ khả năng nuôi con. Ông T làm tài xế xe tải đường dài, thu nhập bình quân mỗi tháng bao nhiêu bà không biết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Đỗ Ngọc T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng Bị đơn vắng mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Tại phiên tòa hôm nay, HĐXX đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Nguyên đơn xin ly hôn và xin nuôi con chung, không yêu cầu Bị đơn cấp dưỡng. Tài sản chung và nợ chung không có. Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa, Bị đơn tiếp tục vắng mặt dù đã được tống đạt hợp lệ. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Lê Thị Yến V, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1] Quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị Yến V và ông Đỗ Ngọc T được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Tại phiên tòa, bà V giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn ông T. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, ông T có hành vi bạo lực gia đình, đánh đập bà V, đập phá tài sản, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Chính quyền địa phương xác nhận sự việc như lời trình bày của Nguyên đơn. Mặc dù, bà V đã rút đơn khởi kiện xin ly hôn lần đầu, nhằm tạo điều kiện để ông T sửa đổi tính tình, vợ chồng có thời gian hàn gắn tình cảm; tuy nhiên sau khi rút đơn, tình cảm vợ chồng không cải thiện được, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, do đó bà tiếp tục nộp đơn xin ly hôn đến Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T không đến Tòa tham gia hòa giải, xét xử... cho thấy ông T có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn. Chứng tỏ tình cảm vợ chồng ông bà hiện nay không còn và làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Nguyên đơn.

[2.3] Về giao người trực tiếp nuôi con:

Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Đỗ Lê Bảo Ng, sinh ngày 21/11/2017. Xét thấy, vợ chồng tuy sống chung nhà nhưng bà V là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dạy cháu Bảo Ng, về sức khỏe cũng như việc học tập của cháu đều tốt; bà V có nghề nghiệp, có thu nhập ổn định, hơn nữa là một giáo viên dạy trẻ nên bà có kinh nghiệm cũng như thời gian quan tâm cháu tốt hơn so với ông T với đặc thù công việc tài xế sẽ hạn chế về thời gian chăm sóc cháu hơn. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu về giao người trực tiếp nuôi con của Nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Lê Thị Yến V.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Yến V được ly hôn với ông Đỗ Ngọc T.

2. Về giao người trực tiếp nuôi con: Bà Lê Thị Yến V được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đỗ Lê Bảo Ng, sinh ngày 21/11/2017.

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với con chung; không ai được ngăn cản việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung.

3. Về án phí: Bà Lê Thị Yến V phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0025679 ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Bà Lê Thị Yến V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt Nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về