TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 112/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 15 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 196/2021/TLST-HNGĐ ngày 13/5/2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 202/2021/QĐ-ST ngày 01/11/2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Trần Thị H, sinh năm 1989.
Địa chỉ: ấp S, xã V, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
- Bị đơn: anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1982.
Địa chỉ: ấp T, thị trấn O, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Nguyên đơn chị H có đơn xin vắng mặt. Bị đơn anh T vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:
Chị với anh Nguyễn Quốc T chung sống với nhau từ năm 2004, có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có với nhau hai con chung. Đến giữa năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T không lo làm ăn để phụ giúp chị nuôi hai con, vợ chồng cũng thường xuyên cự cãi nhau. Chị đã cho anh T nhiều cơ hội để sửa đổi nhưng không có kết quả. Nhận thấy không thể tiếp tục sống chung được nữa nên chị đã quyết định lên Bình Dương sinh sống và làm ăn, vợ chồng cũng chính thức ly thân từ đó cho đến nay. Hiện nay tình cảm không còn, không muốn hàn gắn lại nên chị H yêu cầu giải quyết như sau:
+ Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị H xin được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.
+ Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Trúc P sinh ngày 01/6/2006 và Nguyễn Thùy D sinh ngày 05/5/2010. Sau ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.
+ Về tài sản chung và nợ chung: không có.
- Bị đơn anh Nguyễn Quốc T: Tòa án đã tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho anh T nhưng từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay anh T vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn và nuôi con. Bị đơn anh Nguyễn Quốc T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, thị trấn O, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn.
[1.2] Nguyên đơn chị Trần Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H.
[1.3] Bị đơn anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Quốc T chung sống với nhau từ năm 2004, có tổ chức đám cưới nhưng đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh T không lo làm ăn phụ giúp vợ nuôi con. Do thời gian ly thân đã lâu, hiện nay không còn tình cảm và không muốn hàn gắn lại nên chị H xin được ly hôn với anh T. Tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”. Tại khoản 2 Điều 53 cũng quy định: “Trong trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này”. Như vậy, mặc dù chị H và anh T đã chung sống với nhau một thời gian dài và có con chung nhưng về mặt pháp luật không thừa nhận quan hệ giữa anh chị là vợ chồng nên việc chị H yêu cầu ly hôn với anh T là không phù hợp mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Thị H và anh Nguyễn Quốc T.
[2.2] Về quan hệ con chung, thấy: Qua chứng cứ chị H cung cấp thì chị H và anh T có với nhau hai con chung tên Nguyễn Thị Trúc Psinh ngày 01/6/2006 và Nguyễn Thùy D sinh ngày 05/5/2010. Tại biên bản lấy ý kiến, nguyện vọng của Trúc Phương và Thùy Dương là được sống với mẹ (chị H) sau khi cha mẹ ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ áp dụng Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung Trúc P và Thùy D cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: không có.
[3] Từ những phân tích trên, yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là chưa phù hợp với quy định của pháp luật, các yêu cầu khác được chấp nhận.
[4] Về án phí: chị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 1 điều 28, điều 35, điều 39, khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 1, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 điều 9, điều 14, điều 15, khoản 2 điều 53, điều 81, điều 82, điều 83 và điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Thị H và anh Nguyễn Quốc T.
- Về quan hệ con chung:
Chị Trần Thị H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Nguyễn Thị Trúc Psinh ngày 01/6/2006 và Nguyễn Thùy D sinh ngày 05/5/2010.
Anh Nguyễn Quốc T không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị H phải tạo điều kiện cho anh T được quyền đến thăm nom con, không ai được ngăn cản.
Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hay việc cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: không có. Tuy nhiên sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Trần Thị H và anh Nguyễn Quốc T phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
2. Về án phí: chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008505 ngày 13/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang nên đã nộp xong.
Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Quốc T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã (thị trấn) nơi cơ trú để yêu cầu xem xét phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 112/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 112/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về