Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 107/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 107/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường, vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 230/2021/TLST-HN&GĐ, ngày 23 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2021/QĐXXST-HN&GĐ, ngày 11 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 53/2021/QĐST-HN&GĐ, ngày 26/10/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Bích T, sinh năm: 1989;

Nơi cư trú: Tổ A, KP B, TT VX, huyện ĐL, tỉnh BT.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Minh L, sinh năm: 1989;

Nơi cư trú: Tổ A1, thôn B1, xã ĐH, huyện ĐL, tỉnh BT.

Tại phiên tòa nguyên đơn vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, khởi kiện bổ sung về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” lập ngày 18/6/2021, bổ sung ngày 30/6/2021 cùng các bản tự khai, chứng cứ khác của chị Trần Thị Bích T có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Minh L tự nguyên tìm hiểu, yêu thương nhau rồi đi đến kết hôn năm 2012, đăng ký kêt hôn tại UBND xã ĐH, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận, số giấy chứng nhận kết hôn: 83/2012, quyển số 01/2012, đăng ký ngày 25/9/2012. Sau ngày cưới, vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do anh L bỏ bê, không quan tâm đến cuộc sống gia đình, vợ con. Chị và anh L đã sống ly thân với nhau từ năm 2018 đến nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm đến nhau. Chị xác định không con tình cảm yêu thương, quý trọng đối với anh L nữa. Nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị với anh L có với nhau 01 người con chung tên: Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 07/10/2014. Chị yêu cầu giải quyết quyền được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 05/10/2021 chị T có đơn xin xét xử vắng mặt.

Suốt trong quá trình tố tụng vụ án cũng N thời gian mở phiên tòa, bị đơn – anh Nguyễn Minh L không tham gia, mặc dù Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các loại văn bản tố tụng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐL phát biểu ý kiến như sau:

Việc tuân thủ theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng, bị đơn không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quan điểm về giải quyết vụ án: Xét thấy, chị T không còn tình cảm vợ chồng với anh L, hai người đã sống riêng. Mục đích hôn nhân không đạt được, chị T yêu cầu ly hôn nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn.

Về con chung: Vì anh L không có ý kiến gì về việc nuôi con, cháu Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 07/10/2014, nay đã đủ 7 tuổi. Hiện tại cháu đang ở với mẹ và cháu có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ, chị T tự nguyện tiếp tục nuôi dưỡng cháu nên giao cháu N cho chị T nuôi dưỡng. Buộc anh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về xác định quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện, khởi kiện bổ sung về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” lập ngày 18/6/2021, bổ sung ngày 30/6/2021, Toà án xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Nguyên đơn, bị đơn có địa chỉ và nơi cư trú rõ ràng trên địa bàn huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ĐL theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa chị T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Còn anh Nguyễn Minh L mặc dù đã được Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, anh L đều vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, anh L là trường hợp được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2. Do đó, căn cứ vào quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn tại phiên tòa.

[4] Về hôn nhân: Chị Trần Thị Bích T và anh Nguyễn Minh L có thời gian tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau và đi đến kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐH. Giấy chứng nhận kết hôn số: 83/2012, quyển số 01/2012, đăng ký ngày 25/9/2012. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, sau ngày cưới, anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do anh L thường xuyên vắng nhà, không quan tâm đến kinh tế gia đình, chăm lo vợ con cho nên dẩn đến tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, mâu thuẩn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Trong quá trình tố tụng, Tòa án cũng đã tổ chức nhiều phiên hòa giải, nhầm hàn gắn cho anh chị về sống đoàn tụ với nhau, nhưng anh L không tham gia, kết quả hòa giải không thành. Chị T xác định không còn tình cảm yêu thương gì với anh L nữa, chị nhất định yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh L. Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị T với anh L đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Cho nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu giải quyết ly hôn của chị T là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Chị T yêu cầu giải quyết cho chị được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung tên: Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 07/10/2014. Cháu N đã trên 7 tuổi hiện đang sống và có nguyện vọng được sống với chị T.

Hội đồng xét xử thấy yêu cầu của chị T là yêu cầu hoàn toàn chính đáng, không trái với quy định của pháp luật. Hiện cháu Nguyễn Quỳnh N đang sống với chị T ổn định và tuổi còn rất nhỏ, cháu đang ở độ tuổi cần sự chăm sóc chu đáo của người mẹ. Do vậy, thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị T là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐL tại phiên tòa.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Bích T yêu cầu anh Nguyễn Minh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, mức cấp dưỡng chị T yêu cầu là 2.000.000đ/tháng. HĐXX xét: Yêu cầu của chị T là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Mức cấp dưỡng chị T yêu cầu đối với anh L 2.000.000đ/tháng, là phù hợp với mức chi phí trung bình hiện tại, để cùng chăm lo cho mọi sinh hoạt của một đứa trẻ so với mặt bằng chung tại địa phương. Do vậy thấy cần buộc anh Nguyễn Minh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Trần Thị Bích T mỗi tháng là 2.000.000đ, cấp dưỡng từ tháng 12/2021 cho đến khi cháu Nguyễn Quỳnh N tròn 18 tuổi là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật, với mặt bằng giá cả chung cũng như đề nghị của đại diện VKSND huyện ĐL tại phiên tòa.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Thị Bích T không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét đến trong bản án này.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T là người phải chịu án phí sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật. Anh L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[9] Về áp dụng án lệ: Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa Trần Thị Bích T và anh Nguyễn Minh L là vụ án Hôn nhân và Gia đình. Theo đơn khởi kiện của chị T thì Tòa án xem xét giải quyết quan hệ ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định của luật Hôn nhân và Gia đình. Nghiên cứu tất cả án lệ do Tòa án nhân dân tối cao công bố, không có vụ án nào tương tự như vụ án đang được xét xử. Vì vậy, HĐXX không áp dụng án lệ mà chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.

[10] Xét ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ ngày thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật. Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với nội dung vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 8, 9, 51, 56, 81, 82, 83, 110, 116, 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 2, 6, 7, 7a, 7b, 9 và Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Bích T.

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị Bích T ly hôn anh Nguyễn Minh L.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị Bích T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung có tên: Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 07/10/2014.

Anh Nguyễn Minh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp anh L lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Trần Thị Bích T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh L.

Chị Trần Thị Bích T trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nguyễn Minh L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Nguyễn Minh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Trần Thị Bích T. Mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng. Cấp dưỡng hàng tháng, kể từ tháng12/2021 cho đến khi cháu Nguyễn Quỳnh N đủ 18 tuổi.

Đối với khoản tiền cấp dưỡng, chị Trần Thị Bích T có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án ngay. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Bích T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí do chị đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005414, ngày 23/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐL. Chị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Nguyễn Minh L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con và nộp tại Chị cục Thi hành án dân sự huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. (đã giải thích).

6. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thị hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, sửa đổi bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 107/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:107/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về