Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 106/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D1, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 106/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:  246/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Phương L1, sinh năm 1991. Thường trú: đường C, khu phố N, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương, vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàn V1, sinh năm 1985. Thường trú: đường C, khu phố N, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 4 năm 2022, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương L1 trình bày:

Bà Nguyễn Thị Phương L1 và ông Nguyễn Hoàn V1 tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2012, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương vào ngày 22/11/2012. Thời gian đầu hạnh phúc, đến cuối năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra tranh cãi, chồng thường xuyên ăn nhậu, cờ bạc không quan tâm đến vợ con và gia đình. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn, bà L1 đã cố gắng hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng không có kết quả; hai bên gia đình không có ý kiến, để hai vợ chồng quyết định. Từ đầu năm 2021, bà L1 và cháu H1 về nhà mẹ ruột tại địa chỉ số 116, đường số 5, khu phố Nhị Đồng, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương để sinh sống. Bà L1 làm nhân viên văn phòng có hợp đồng lao động tại Công ty TNHH Crestec Việt Nam, thu nhập bình quân hơn 9.000.000 đồng/tháng. Nay, bà L1 không còn tình cảm gì đối với ông V1, hai vợ chồng không còn quan hệ vợ chồng, sống ly thân đã lâu, không quan tâm đến cuộc sống của nhau. Quá trình chung sống hai vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàn Phương H1, sinh ngày 07/8/2018. Nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết bao gồm:

1. Về hôn nhân: yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hoàn V1.

2. Về con chung: Yêu cầu được nuôi con chung Nguyễn Hoàn Phương H1, sinh ngày 07/8/2018, không yêu cầu ông Nguyễn Hoàn V1 phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã triệu tập bị đơn ông Nguyễn Hoàn V1 nhưng bị đơn vắng mặt không rõ lý do, không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định; không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa nhận thấy mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Phương L1 và ông Nguyễn Hoàn V1 là trầm trọng, không hàn gắn đoàn tụ được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương L1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương L1 khởi kiện tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn ông Nguyễn Hoàn V1 hiện nay đang sinh sống và đăng ký thường trú tại đường C, khu phố N, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương nên căn cứ theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương; quan hệ pháp luật tranh chấp là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Hoàn V1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Hoàn V1.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương L1 với bị đơn ông Nguyễn Hoàn V1 tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D1, thị xã (nay là thành phố) D1, tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 267/2012, quyển số 02/2012 ngày 22/11/2012 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời trình bày của bà L1 trong thời gian chung sống giữa bà L1 và ông V1 thời gian đầu hạnh phúc, đến cuối năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra tranh cãi, ông V1 thường xuyên ăn nhậu, cờ bạc không quan tâm đến vợ con và gia đình. Từ đầu năm 2021 hai vợ chồng đã sống ly thân, bà L1 và cháu H1 về nhà mẹ ruột tại địa chỉ số 116, đường số 5, khu phố Nhị Đồng, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương để sinh sống. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập bị đơn ông Nguyễn Hoàn V1 tham gia tố tụng nhưng ông V1 vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc ông V1 vắng mặt không có lý do là tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng, nghĩa vụ chứng minh của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L1 và ông V1 là thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, bà L1 yêu cầu được ly hôn với ông V1 là có căn cứ chấp nhận.

[5] Về con chung: Bà L1 và ông V1 có 01 con chung tên Nguyễn Hoàn Phương H1, sinh ngày 07/8/2018. Bà L1 yêu cầu được nuôi con chung. Xét thấy, cháu H1 đang sống chung với bà L1, bà L1 có việc làm và thu nhập ổn định nên có đủ điều kiện để nuôi con phát triển bình thường. Do vậy, Hội đồng xét xử giao cháu H1 cho bà L1 nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của bà L1 không yêu cầu ông V1 phải cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương.

[8] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Phương L1 đối với ông Nguyễn Hoàn V1 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Phương L1 được ly hôn với ông Nguyễn Hoàn V1 (Giấy chứng nhận kết hôn số 267/2012, quyển số 02/2012 do Ủy ban nhân dân phường D1, thị xã (nay là thành phố) D1, tỉnh Bình Dương cấp ngày 22/11/2012).

- Về con chung: Giao con chung cháu Nguyễn Hoàn Phương H1, sinh ngày 07/8/2018 cho bà Nguyễn Thị Phương L1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Hoàn V1 không phải cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con nếu lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Phương L1 phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng được khấu trừ 300.000 đồng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003717 ngày 14 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D1, tỉnh Bình Dương.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 106/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:106/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về