Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 1034/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 1034/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 610/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng K, nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Ngọc T, nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 21 tháng 3 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Hồng K trình bày:

Chị và anh Huỳnh Ngọc T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn vào ngày 21- 01-2008 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố Q. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, do anh T không quan tâm đến gia đình, không dạy dỗ con cái, thường hay đánh đập con và xúc phạm vợ.

Sự việc mâu thuẫn kéo dài đã lâu; chị đã từng gửi đơn ly hôn ra Tòa vào năm 2020 nhưng được Tòa hòa giải cho anh T cơ hội sửa đổi nên chị đã rút đơn. Thế nhưng, sau đó anh T không sửa đổi mà còn thậm tệ hơn làm cho mâu thuẫn vợ chồng khó hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung, vợ chồng chị có 02 con chung là Huỳnh Lê Bảo N (sinh ngày 22- 12-2008) và Huỳnh Anh K (sinh ngày 21-02-2016); sức khỏe của các con bình thường, đang sống cùng cha mẹ. Hiện tại chị không mang thai; chị buôn bán tại nhà còn anh T làm công nhân xưởng gỗ; thu nhập trung bình của chị khoảng 12.000.000 đồng/tháng. Nếu ly hôn thì chị xin trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, vợ chồng chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Huỳnh Ngọc T đã được Tòa án thông báo, tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa để làm việc, không cung cấp tài liệu, chứng cứ và Tòa án cũng không lấy được lời khai của anh T.

* Tại bản khai đề ngày 17 tháng 6 năm 2022, cháu Huỳnh Lê Bảo N trình bày: Cháu là con của Huỳnh Ngọc T và Lê Thị Hồng K. Nếu cha, mẹ cháu ly hôn thì cháu xin được ở với mẹ vì mẹ chăm sóc cháu tốt hơn cha.

* Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị Hồng K được ly hôn anh Huỳnh Ngọc T.

- Giao cháu Huỳnh Lê Bảo N và cháu Huỳnh Anh K cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị K không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn chị Lê Thị Hồng K yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn và nuôi con. Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã thụ lý và đưa ra xét xử vụ án dân sự về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn anh Huỳnh Ngọc T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các quyết định tố tụng nhưng tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa lần hai không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định.

[3] Chị Lê Thị Hồng K và anh Huỳnh Ngọc T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố Q vào ngày 21-01-2008, nên hôn nhân giữa chị K và anh T là hôn nhân hợp pháp. Theo chị K trình bày, giữa vợ chồng chị đã nảy sinh mâu thuẫn từ lâu, nguyên nhân do anh T thiếu trách nhiệm với gia đình, không chăm lo con cái, thường hay đánh đập con và xúc phạm vợ; chị đã từng gửi đơn ly hôn ra Tòa và sau đó rút đơn để cho anh T cơ hội sửa đổi nhưng anh T càng thậm tệ hơn; mặc dù, chị với anh T còn sống chung nhà nhưng từ lâu đã không còn tình cảm và trách nhiệm với nhau. Tòa án đã nhiều lần triệu tập, thông báo nhưng anh T không đến Tòa để trình bày ý kiến, nguyện vọng, chứng tỏ không có thiện chí, có ý thức bỏ mặc cho quan hệ hôn nhân của mình. Xét tình trạng hôn nhân của chị K và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, theo khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa chấp nhận cho chị K được ly hôn anh T.

[4] Chị K và anh T có 02 con chung là Huỳnh Lê Bảo N (sinh ngày 22-12-2008) và Huỳnh Anh K (sinh ngày 21-02-2016). Chị K yêu cầu được nuôi 02 con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét điều kiện của các bên cũng như nguyện vọng và quyền lợi về mọi mặt của con chung, Tòa chấp nhận yêu cầu của chị K, giao cháu N và cháu K cho chị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của chị K không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, do các bên không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm, theo điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị K phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[7] Ý kiến của Kiểm sát viên về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Hồng K và anh Huỳnh Ngọc T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cháu Huỳnh Lê Bảo N (sinh ngày 22-12-2008) và cháu Huỳnh Anh K (sinh ngày 21-02-2016) cho chị Lê Thị Hồng K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

2.2. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Lê Thị Hồng K không yêu cầu anh Huỳnh Ngọc T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; nếu lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Hồng K phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003746 ngày 21 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

4. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 1034/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1034/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về