Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 316/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23/02/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ái N, sinh năm 1991. Địa chỉ: ấp L, xã A, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Anh Dư Phi L, sinh năm 1987; Địa chỉ: ấp X, xã 1, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

(Chị N có mặt tại phiên tòa, anh L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04/11/2020, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ái N trình bày: Chị và anh Long cưới nhau năm 2015, hôn nhân do anh chị tự tìm thiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thường Phước 1, huyên H, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận không có mâu thuẫn. Đến năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cải nhau nên không còn sống chung với nhau. Sau khi không còn sống chung thì có gặp nhau để hàn gắn tình cảm nhưng không hàn gắn được, trước khi khởi kiện vụ án này chị đã khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu ly hôn nhưng khi đó chị cho anh Long cơ hội để có thể đoàn tụ nên chị đã rút đơn khởi kiện và Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án nhưng anh Long không thể hiện thái độ doàn tụ. Nay chị Nguyễn Thị Ái N yêu cầu ly hôn với anh Dư Phi L, vì tình cảm không còn. Về con chung: Có 01 con chung tên: Dư Hoàng P, sinh ngày 05/01/2016, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, trong đơn khởi kiện chị yêu cầu anh Long cấp dưỡng theo quy định của pháp luật, nhưng tại phiên tòa chị thay đổi yêu cầu, không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong biên bản lấy lời khai của đương sự, bị đơn anh Dư Phi L trình bày: Về hôn nhân: Anh và chị N cưới nhau năm 2015, hôn nhân do anh chị tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thường Phước 1, huyên H, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận không có mâu thuẫn. Đến khoảng cuối năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm nên không còn sống chung với nhau. Sau khi không còn sống chung thì có gặp nhau để hàn gắn tình cảm nhưng không hàn gắn được. Nay chị Nguyễn Thị Ái N yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì vẫn còn thương vợ con. Về con chung: Có 01 chung tên Dư Hoàng P, sinh ngày 05/01/2016, đang sống với vợ, nếu Tòa án cho ly hôn anh đồng ý giao con cho vợ nuôi dưỡng, anh cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đều chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về nôi dung vụ án: Về hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ái N; Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về cấp dưỡng: Chị N không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề câp đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Ái N khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Dư Phi L và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Đây là vụ án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Dư Phi L cư trú tại ấp Chòm Xoài, xã Thường Phước 1, huyên Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Hồng Ngự quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1. Về hôn nhân: Chị N và anh Long cưới nhau năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thường Phước 1, huyện H, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 08/9/2016 phù hợp với quy định tại Điều 9 Luât Hôn nhân và gia đình. Trong lời trình bày thì anh Long có thừa nhận khoảng cuối năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm nên không còn sống chung với nhau. Sau khi không còn sống chung thì có gặp nhau để hàn gắn tình cảm nhưng không hàn gắn được và chị N cho rằng anh chị cự cải nhau rất nhiều đã dẫn đến không đoàn tụ được, trước khi khởi kiện vụ án này chị đã khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu ly hôn nhưng khi đó chị cho anh Long cơ hội để có thể đoàn tụ nên chị đã rút đơn khởi kiện và Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án nhưng anh Long không thể hiện thái độ doàn tụ. Tại phiên tòa, chị N cương quyết yêu cầu ly hôn với anh Long . Điều này thể hiện mâu thuẩn giữa chị N và anh Long rất trầm trọng. Mặt khác, khi Tòa án mời anh Long về để hòa giải cho anh chị đoàn tụ nhưng anh Long không về để hòa giải đoàn tụ nên anh Long thể hiện ý chí không đoàn tụ với chị N. Từ các phân tích trên đã có đủ căn cứ chứng minh hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Ái N và anh Dư Phi L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ái N là phù hợp.

2.2. Về con chung: Chị N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Dư Hoàng P, sinh ngày 05/01/2016, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, trong đơn khởi kiện chị yêu cầu anh Long cấp dưỡng theo quy định của pháp luật, nhưng tại phiên tòa chị thay đổi yêu cầu, không yêu cầu cấp dưỡng, việc thay đổi này hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, anh L cũng đồng ý giao con chung cho chị N nuôi dưỡng khi Tòa án giải quyết cho ly hôn nên chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Ái N là phù hợp.

2.3. Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị N và anh L đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đăt ra để xem xét.

2.4. Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị N và anh L đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đăt ra để xem xét.

[3] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

4.1. Chị Nguyễn Thị Ái N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số BI/2019/0003067 ngày 25/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Chị Nguyễn Thị Ái N không phải nôp thêm.

4.2. Anh Dư Phi L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 244 của Bộ luật tố tụng dân sự;

các Điều 9, 53, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình, Điều 27 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ái N. Cho chị Nguyễn Thị Ái N ly hôn với anh Dư Phi L.

2. Về con chung: Giao con chung tên Dư Hoàng Phúc, sinh ngày 05/01/2016 cho chị Nguyễn Thị Ái N được tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: Anh Dư Phi L không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Ái N tự nguyện không yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

3.1 Chị Nguyễn Thị Ái N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số BI/2019/0003067 ngày 25/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Chị Nguyễn Thị Ái N không phải nôp thêm.

3.2 Anh Dư Phi L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về