Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 101/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH B

BẢN ÁN 101/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B xét xử sơ Thẩm công khai vụ án thụ lý số: 116/2022/TLST– HN GĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 151/2022/QĐXXST-HN GĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Diễm T, sinh năm: 1985; Địa chỉ: ấp 3, xã S, huyện G, tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Công K, sinh năm: 1987; Địa chỉ: ấp 3, xã S, huyện G, tỉnh B.

Tại phiên tòa sơ Thẩm, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 18/3/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là bà &guyễn Thị Diễm T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Công K chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố B, tỉnh B vào ngày 16/11/2009. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn. N guyên nhân chính xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên bất hòa, cự cãi với nhau. Bà và ông K đã sống ly thân với nhau từ tháng 12/2020 cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nữa nên bà có yêu cầu ly hôn với ông K.

Về con chung: Trong quá trình chung sống bà và ông K có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Bảo Kh, sinh ngày: 11/9/2011. Hiện nay con chung do bà đang trực tiếp nuôi dưỡng. Bà có yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung chưa thành niên, bà không yêu cầu ông Khanh phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận việc làm ăn, bà không thể đến Tòa án giải quyết việc ly hôn của bà và ông K được nên bà có yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bà không có khiếu nại.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện G đã thông báo và tổ chức các phiên công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông K đều vắng mặt không lý do.

Do không thể tiến hành hòa giải được, Tòa án nhân dân huyện G đã đưa vụ án ra xét xử vào ngày 04 tháng 7 năm 2022, ông K vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa sơ Thẩm được mở lại vào ngày hôm nay, ông K vẫn vắng mặt không lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Thẩm phán đã xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, đúng quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ trong quá trình tố tụng. Thẩm phán đảm bảo đúng theo thời gian giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật, vô tư, khách quan. N guyên đơn chấp hành đúng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Diễm T. Ông Nguyễn Công K và bà Nguyễn Thị Diễm T được ly hôn.

Về con chung: Ông K và bà T có 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàng Bảo Kh, sinh ngày: 11/9/2011. Giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông K không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà T không có yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được Thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Đối với ông Nguyễn Công K đã được Tòa án triệu tập đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Bà Nguyễn Thị Diễm T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông K và bà T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông K tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố B, tỉnh B vào ngày 16/11/2009 nên quan hệ hôn nhân của ông bà được coi là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sau kết hôn, ông K và bà T cùng chung sống với nhau rất hạnh phúc một thời gian đến khoảng đầu năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn. N guyên nhân chính xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn phát sinh hàng ngày, vợ chồng thường xuyên cự cãi, không có tiếng nói chung và vợ chồng ông K, bà T đã sống ly thân với nhau vào tháng 12/2020 cho đến nay.

Hội đồng xét xử xét thấy bà T và ông K đã sống ly thân với nhau từ năm 2020, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, ông bà không còn quan tâm chăm sóc nhau như vợ như chồng. Do bà T không còn tình cảm vợ chồng với ông K nữa nên bà có yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông K. Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên hòa giải với mục đích là hòa giải cho ông bà đoàn tụ. Tuy nhiên, ông K đã bỏ mặc không tham gia. Mặt khác, trong thời gian ly thân ông K và bà T cũng không quan tâm chăm sóc cho nhau, không cùng cải thiện tình trạng hôn nhân của ông bà. Tòa án đã động viên bà T trở lại hàn gắn đoàn tụ nhưng bà T vẫn cương quyết xin ly hôn với ông K.

Xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T là phù hợp.

- Về con chung: Bà T và ông K có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Bảo Kh, sinh ngày: 11/9/2011, hiện cháu Kh do bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi ông K và bà T sống ly thân, bà T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà T vẫn đảm bảo quyền và lợi ích cho trẻ, cháu Kh do bà T trực tiếp nuôi dưỡng đã ổn định. Mặt khác, do cháu Kh đã trên 07 tuổi, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến tham khảo của cháu Kh, ý kiến của cháu Kh có nguyện vọng tiếp tục sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định và không nên làm xáo trộn về tâm lý của trẻ nên cần giao con chung chưa thành niên cho bà T được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân cà gia đình thì cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà T không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện của bà T nên ghi nhận.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà T khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do ông K không đến Tòa để giải quyết về việc ly hôn nên không xem xét được ông K có yêu cầu về việc tranh chấp tài sản chung và nợ chung hay không. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện G là thống nhất với quan điểm của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về án phí: bà T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Diễm T được ly hôn với ông Nguyễn Công K.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Diễm T và ông Nguyễn Công K có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Bảo Kh, sinh ngày: 11/9/2011. Giao con chung chưa thành niên cho bà T tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông K không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không có yêu cầu.

Ông K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở ông K thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

4. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Diễm T phải chịu 300.000(Ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu số 0007093 ngày 23/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G. Bà T đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, các bên đương sự có quyền kháng cáo đối với bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 101/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:101/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về