Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 349/2021/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Trung H, sinh năm 1990; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh B.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hoài Th, sinh năm 1991; hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã A, huyện D, tỉnh B.

Nguyên đơn ông H, bị đơn bà Th có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn xin ly hôn ngày 15 tháng 10 năm 2021, quá trình tố tụng giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn ông Huỳnh Trung H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông H và bà Th có mối quan hệ là vợ chồng, chung sống với nhau từ năm 2016, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào ngày 04/7/2017 tại UBND xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng. Ban đầu thì vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng về sau thì thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân: Do vợ chồng sống chung không hợp, thường xuyên gây gỗ, xảy ra nhiều mâu thuẫn, luôn bất đồng quan quan điểm sống, giữa vợ chồng không còn tình cảm; hiện nay ông H và bà Th đã không còn chung sống cùng nhau, ông H về nhà mẹ ruột ở xã Thanh Tuyền sinh sống từ tháng 09/2021 cho đến nay. Vì vậy đời sống chung vợ chồng ngày càng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không có hạnh phúc nên ông H yêu cầu được ly hôn với bà Th.

- Về con chung: Ông H và bà Th có 01 con chung tên Huỳnh Minh Nh, sinh ngày 21/5/2017. Hiện nay con chung đang do bà Th nuôi dưỡng. Ông H đồng ý giao con chung cho bà Th nuôi dưỡng và ông Hiếu đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung, nợ chung: Khi ly hôn, ông H không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

* Theo biên bản hòa giải ngày 25 tháng 11 năm 2021; tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn (bà Th) thể hiện như sau:

Bà Th xác định lời trình bày của ông H về việc kết hôn, con chung là đúng. Bà Th thừa nhận có một thời gian từ năm 2018 cho đến nay, bà Th và ông H không sống chung do mâu thuẫn vợ chồng. Nên ông H yêu cầu ly hôn, bà Th không đồng ý. Bà Th muốn vợ chồng hàn gắn tình cảm. Vì bà Th còn thương chồng.

Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng như tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự để bị đơn bà Thương biết để tham gia giải quyết vụ án nhưng bà Th vắng mặt không có lý do. Tại buổi phiên tòa hôm nay bà Th có mặt.

Tại biên bản xác minh cùng ngày 07/01/2022 của Tòa án đối với ông Tạ Thanh T và ông Nguyễn Văn Ph – Trưởng Ban lãnh đạo ấp Hố Cạn, xã An Lập, huyện Dầu Tiếng, đơn xin xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Thanh Tuyền xác định: Bà Nguyễn Thị Hoài Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Hố Cạn, xã An Lập, huyện Dầu Tiếng và hiện nay đang sinh sống tại địa phương. Trong cuộc sống ông H và bà Th thường xuyên xẩy ra mâu thuận, nên ông H và bà Th không còn chung sống cùng nhau, ông H về sinh sống tại xã Thanh Tuyền từ tháng 09/2021, riêng bà Th vẫn sinh sống tại ấp Hố Cạn, xã An Lập, huyện Dầu Tiếng cho đến nay.

* Tại phiên tòa, đại diện iện iểm sát phát biểu ý iến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự thủ tục cho đương sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn ông H có mặt, bị đơn bà Th được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai có mặt.

Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án và được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa, xét thấy yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung của nguyên đơn ông Hiếu là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Ông H khởi kiện bà Th về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Bà Th hiện đang cư trú tại ấp H, xã A, huyện D, tỉnh B. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nên đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng.

[1.2] Tại phiên tòa, nguyên đơn ông H có mặt, bị đơn bà Th được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai có mặt.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Ông H và bà Th chung sống với nhau từ năm 2016, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương vào ngày 04/7/2017. Quá trình chung sống thời gian đầu thì hạnh phúc, về sau thì thường phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, đời sống chung vợ chồng không có hạnh phúc. Từ tháng 9/2021 đến nay, giữa ông H và bà Th không còn sống chung với nhau. Lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Kết quả xác minh ngày 07/01/2022 của Tòa án đối với ông Tạ Thanh T và ông Nguyễn Văn Ph – Trưởng Ban lãnh đạo ấp H, xã A, huyện D, đơn xin xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Thanh Tuyền. Theo quy định tại các Điều 19, 21 của Luật Hôn nhân gia đình quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc gia đình; chung sống cùng nhau, tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Từ những quy định trên thấy rằng, các bên đương sự đã vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, hiện ông H và bà Th không còn chung sống cùng nhau, đời sống chung lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của ông H đối với bà Th là có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Trong quá trình chung sống, giữa ông H và bà Th có 01 con chung tên Huỳnh Minh Nh, sinh ngày 21/5/2017. Hiện con chung đang sinh sống với bà Th. Ông H đồng ý để con chung cho bà Th nuôi dưỡng.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông H đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng/tháng.

[2.4] Tài sản chung, nợ chung: Ông H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn ông H phải chịu theo quy định của pháp luật.

vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 19, 21, 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Trung H đối với bà Nguyễn Thị Hoài Th về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Huỳnh Trung H ly hôn với bà Nguyễn Thị Hoài Th.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Huỳnh Minh Nh, sinh ngày 21/5/2017, cho bà Nguyễn Thị Hoài Th trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Huỳnh Trung H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày bà Nguyễn Thị Hoài Th có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Huỳnh Trung H không cấp dưỡng nuôi con đúng thời hạn, thì hàng tháng ông H còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không tranh chấp nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Huỳnh Trung H chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0006914 ngày 09 tháng 11 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, ông H đã nộp xong. Ông H chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/3/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về