Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, xét xử công khai vụ án thụ lý số 14/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Ng K S, sinh năm 1987; địa chỉ thường trú: Ấp Xẻo Quao, thị trấn Ng, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; địa chỉ tạm trú: Số nhà 17Z/1B, Khu phố Đ, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Đình Anh, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Hai Căn, xã Phú Nghĩa, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước. Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông M V H, sinh năm 1987; địa chỉ: Số nhà 17Z/1B, Khu phố Đ, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà Ng K S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông H tự nguyện tìm hiểu, sau đó tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64 ngày 10 tháng 8 năm 2018. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau. Do, tình cảm vợ chồng không còn nên bà S yêu cầu Toà án giải quyết cho bà ly hôn với ông H. Trường hợp Tòa án không cho bà ly hôn với ông H thì bà cũng cương quyết không đoàn tụ với ông Hậu.

Về con chung: Có 01 con chung tên M Ng Th Tr, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2018. Khi ly hôn bà S yêu cầu giao con chung cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì công việc của bà là bán hàng ăn tại nhà nên có nhiều thời gian để chăm sóc, đưa đón con đi học. Thu nhập hàng tháng của bà đủ đảm bảo nuôi con có một cuộc sống ổn định, không cần băn khoăn về tiền bạc. Mặt khác, kể từ khi sinh con ra đến nay việc chăm sóc con là do bà tự chăm sóc, ông H làm nghề xây dựng nên phải đi theo công trình, nhiều khi phải ở lại công trình trông coi. Chính vì thế nếu giao con cho ông H thì ông H không có thời gian chăm sóc con. Thu nhập của ông H cũng chỉ đủ chi tiêu cho cá nhân ông H.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Ng K S không yêu cầu ông M V H phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Qúa trình tố tụng bị đơn ông M V H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông H thống nhất lời trình bày cùa bà S về quan hệ hôn nhân, con chung. Riêng về mâu thuẫn vợ chồng xảy ra từ khi bị dịch covid 19 ông phải đi làm 3 tại chỗ. Sau hết dịch ông về nhà và phát hiện bà S có quan hệ bất chính với người đàn ông khác và còn có hành vi hủy chứng cứ bằng cách đập điện thoại của ông. Nay, bà S yêu cầu ly hôn với ông, ông chỉ đồng ý ly hôn khi bà S đồng ý giao con cho ông nuôi, nếu bà Sò không đồng ý giao con cho ông nuôi thì chờ con đủ 07 tuổi vợ chồng mới ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên M Ng Th Tr, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2018. Khi ly hôn bà S yêu cầu giao con chung cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì ông không đồng ý vì bà S thường xuyên để con cho mẹ ông chăm và đi chơi khuya, cháu phải ngủ với bà. Trường hợp vợ chồng ly hôn ông yêu cầu Tòa án giao con cho ông trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì ông có nghề nghiệp, thu nhập ổn định mỗi tháng khoảng 25.000.000 đồng đến 26.000.000 đồng. Nghề nghiệp của ông làm xây dựng nên thường phải đi công trình. Tuy nhiên, nếu Tòa án giao con cho ông thì ông sẽ đón mẹ ông ngoài quê vào đây cùng ông chăm sóc con vì từ nhỏ đến giờ con ông do bà chăm sóc. Hiện tại mẹ ông mới về quê do vợ chồng mâu thuẫn.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông M V H không yêu cầu bà Ng K S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn không chấp hành đúng pháp luật tố tụng.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, nhận thấy yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà S khởi kiện ông H yêu cầu ly hôn, ông H hiện đang tạm trú tại: Số nhà 17Z/1B, Khu phố Đ, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân thành phố Thuận An thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Anh, ông H theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ng K S và ông M V H tự nguyện tìm hiểu chung sống và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64 ngày 10 tháng 8 năm 2018, là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay, bà S xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, hay cãi vã, sống không hạnh phúc nên bà S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông H.

Ông H thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn là do bà S có quan hệ bất chính với người đàn ông khác và ông chỉ đồng ý ly hôn khi bà S đồng ý giao con cho ông trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng chỉ tồn tại bền vững dựa trên tình cảm thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và khi có những bất đồng trong quan hệ vợ chồng thì người vợ và người chồng phải cùng nhau tích cực hàn gắn, xóa bỏ những mâu thuẫn, duy trì tình cảm tốt đẹp của vợ chồng. Nhưng quan hệ hôn nhân giữa bà S và ông H không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, Tòa án đã tiến hành hòa giải để vợ chồng trở về đoàn tụ, nhưng tại phiên hòa giải ông H, bà S vẫn tiếp tục xảy ra cự cãi, mâu thuẫn gay gắt, ông H cho rằng bà S có quan hệ bất chính với người đàn ông khác, nhưng ông không đưa ra được chứng cứ để chứng minh, còn bà S thì cương quyết yêu cầu ly hôn, không đồng ý đoàn tụ với ông H. Mặt khác, hiện nay vợ chồng sống chung một nhà, nhưng không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau nữa nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bà S về việc ly hôn với ông H.

[2.2] Về con chung: Có 01 con chung tên M Ng Th Tr, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2018. Khi ly hôn bà S yêu cầu giao con chung cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, nhưng ông H không đồng ý và yêu cầu giao con cho ông. Xét thấy, ông H yêu cầu giao con cho ông nuôi dưỡng, nhưng quá trình tố tụng ông H thừa nhận công việc của ông làm nghề xây dựng nên thường xuyên phải đi công trình, con hiện nay do bà S chăm sóc, điều này cũng phù hợp với xác nhận của chính quyền địa phương cung cấp thông tin là con do bà S chăm sóc. Ông H cho rằng nếu giao con cho ông thì ông sẽ đưa mẹ ông ngoài quê vào cùng chăm sóc với ông. Tuy nhiên, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con là quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của cha mẹ, ông H thường xuyên đi công trình, cháu Tr còn quá nhỏ nên rất cần tình thương yêu, chăm sóc, giáo dục của một người mẹ, bà S có việc làm, thu nhập ổn định, lại đang trực tiếp nuôi con khi ông H vắng nhà và cháu vẫn phát triển bình thường. Do đó, bà S yêu cầu giao con cho bà là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà S không yêu cầu ông H phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ng K S đối với bị đơn ông M V H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Ng K S được ly hôn ông M V H.

- Về con chung: Giao cháu M Ng Th Tr, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2018 cho bà Ng K S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Ng K S không yêu cầu ông M V H phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm con, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Ng K S phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0001932 ngày 11 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về