Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 05/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Trong ngày 09 tháng 3 năm 2022 tại Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 523/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐST – HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tư D, sinh năm 1988 Địa chỉ: 125 NT, tổ 5, phường DH, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Bùi Thị Huyền T, sinh năm 1985 Địa chỉ: 125 NT, tổ 5, phường DH, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 9 năm 2021, bản tự khai ngày 26 tháng 10 năm 2021 và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, nguyên đơn anh Nguyễn Tư D trình bày như sau:

Anh và chị Bùi Thị Huyền T sau thời gian tìm hiểu tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 12 tháng 01 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã HT, huyện LT, tỉnh Quảng Bình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do quan niệm sống và cách nhìn nhận cuộc sống không phù hợp mặc dù hai bên rất cố gắng, hai gia đình cũng can thiệp nhưng anh và chị T vẫn không thể tiếp tục chung sống. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh và chị T đã sống ly thân được một thời gian dài. Nay anh tự nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, đời sống chung đã mất, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn giữa anh và chị Bùi Thị Huyền T.

Về con chung: Anh và chị Bùi Thị Huyền T có 03 (ba) con chung là Nguyễn Tư Khánh H, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2011, Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2013 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014. Tôi có nguyện vọng nhận chăm sóc nuôi dưỡng các con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Anh và chị Bùi Thị Huyền T tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết

Đối với bị đơn chị Bùi Thị Huyền T:

Chị Bùi Thị Huyền T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để chị T trình bày ý kiến về yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung của anh Nguyễn Tư D nhưng chị T không đến Tòa án làm việc. Vì vậy Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng theo luật định để xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P có ý kiến như sau:

Về trình tự, thủ tục tố tụng: Việc Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về thụ lý vụ án, thẩm quyền giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như trình tự phiên tòa. Đảm bảo về thời hạn chuẩn bị xét xử. Nguyên đơn anh Nguyễn Tư D chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng. Đối với bị đơn chị Bùi Thị Huyền T, việc chấp hành theo quy định của pháp luật tố tụng chưa bảo đảm.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Tư D về yêu cầu ly hôn với chị Bùi Thị Huyền T, giao 03 (ba) con chung là Nguyễn Tư Khánh H, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2011, Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2013 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014 cho anh Nguyễn Tư D chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Tư D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Anh Nguyễn Tư D và chị Bùi Thị Huyền T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không thuộc trường hợp cấm kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HT, huyện LT, tỉnh Quảng Bình ngày 12 tháng 01 năm 2010. Hôn nhân của anh chị tuân thủ theo các Điều 9, 10, 11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 nên hôn nhân hợp pháp.

Do mâu thuẫn gia đình, anh Nguyễn Tư D yêu cầu giải quyết ly hôn với chị Bùi Thị Huyền T đồng thời giải quyết về vấn đề con chung, bị đơn Bùi Thị Huyền T cư trú trên địa bàn thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P theo loại việc, theo lãnh thổ và theo cấp xét xử Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn Bùi Thị Huyền T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án để chị trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của anh D, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải đoàn tụ và hòa giải về hôn nhân, con chung và các vấn đề khác cũng như tham gia phiên tòa nhưng chị T vắng mặt. Do đó căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Theo biên bản xác minh ngày 11 tháng 10 năm 2021 chính quyền địa phương không xác định được mâu thuẫn vợ chồng giữa anh D và chị T nhưng ghi nhận từ tháng 8 năm 2021 đến nay chị T không còn chung sống với anh D.

Từ thực tế anh Nguyễn Tư D và chị Bùi Thị Huyền T không cùng chung sống cùng với nội dung của Đơn thuận tình ly hôn không đề ngày tháng năm cho thấy trong quan hệ vợ chồng giữa anh D và chị T đã tồn tại những mâu thuẫn không thể hàn gắn, giữa anh chị không còn sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau đã làm rạn nứt nghiêm trọng tình cảm vợ chồng dẫn đến anh chị thống nhất thuận tình ly hôn.

Từ đó có cơ sở khẳng định hôn nhân của anh Nguyễn Tư D và chị Bùi Thị Huyền T phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Tư D, xử cho anh D được ly hôn với chị Bùi Thị Huyền T.

Về con chung: Anh Nguyễn Tư D và chị Bùi Thị Huyền T có 03 (ba) con chung là Nguyễn Tư Khánh H, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2011, Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2013 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014.

Anh Nguyễn Tư D yêu cầu được nhận chăm sóc, nuôi dưỡng cả 03 con chung Nguyễn Tư Khánh H, Nguyễn Thị Hải Y và Nguyễn Thị Ngọc H. Từ nguyện vọng của các cháu cùng với thực tế các cháu đang chung sống với anh D; cần thiết giao cả 03 con chung Nguyễn Tư Khánh H, Nguyễn Thị Hải Y và Nguyễn Thị Ngọc H cho anh D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp quy định tại Điều 92 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con cùng với vấn đề tài sản chung và nghĩa vụ chung: Anh Nguyễn Tư D không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét trong cùng vụ án này.

Về án phí: Anh Nguyễn Tư D phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 97, Điều 227, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, 10, 11, 89, 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng Điều 51, 53, 54, 56, 57, 81, 82, 83, 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 146, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Tư D Anh Nguyễn Tư D được ly hôn với chị Bùi Thị Huyền T 2. Về con chung:

Giao 03 (ba) con chung là Nguyễn Tư Khánh H, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2011, Nguyễn Thị Hải Y, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2013 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014 cho anh Nguyễn Tư D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Tư D phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo biên lai số 0000805 ngày 04 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P. Anh Nguyễn Tư D đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn anh Nguyễn Tư D được quyền làm đơn kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng bị đơn chị Bùi Thị Huyền T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc bản sao bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về