Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 372/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị D, sinh năm 1980; HKTT: Ấp T, xã M, huyện P, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn  T, sinh năm 1979; HKTT: Ấp T, xã M, huyện P, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt đến lần thứ hai không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn ngày 25/11/2021, quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông T chung sống với nhau từ năm 2000.

Hôn nhân là tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Dầu Tiếng vào ngày 15/4/2003. Thời gian đầu, vợ chồng sống hạnh phúc, những năm gần đây thì phát sinh mâu thu n, bất đồng ý kiến, ông T không lo làm ăn và hai bên đã sống ly thân. Thấy mâu thu n đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, vợ chồng không còn tình cảm nên bà D làm đơn xin được ly hôn với ông T.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Trần  T K, sinh ngày 15/7/2000 và Trần Quốc B, sinh ngày 04/02/2005. Khi ly hôn, bà D yêu cầu được nuôi con chung Trần Quốc B và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Trần  T K đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Chứng cứ nguyên đơn bà D giao nộp: Bản chính đơn xin ly hôn, bản tự khai ngày 25/11/2021; bản sao giấy chứng nhận kết hôn; bản sao giấy khai sinh của con chung.

* Bị đơn ông T:

Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tống đạt, niêm yết để ông T tham gia tố tụng nhưng ông T cố tình vắng mặt mà không có lý do nên không thu thập được ý kiến của ông T.

* Xác minh và làm việc của Tòa án:

Ngày 04/01/2022, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã tiến hành xác minh tại nhà ông L (hàng xóm), xác định: Vợ chồng bà D có gây gổ, cãi nhau. Nguyên nhân là do ông T tính tình nóng nảy, hay uống rượu. Hiện tại cả hai người đã sống ly thân.

Ngày 04/01/2022, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã tiến hành xác minh đối với trưởng ấp, xác định: Vợ chồng bà D không còn sống chung, nguyên nhân là sống chung không hợp, bất đồng y kiến, không quan tâm chăm sóc nhau. Hiện nay, vợ chồng đang ly thân.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng có ý kiến:

Quá trình tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đã thực hiện đầy đủ việc tống đạt các văn bản tố tụng cho các bên đương sự. Tại phiên tòa, đã có mặt nguyên đơn bà D, bị đơn ông T được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không lý do. Việc vắng mặt của bị đơn ông T là cố tình nên đề nghị xét xử vắng mặt đương sự theo các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là tranh chấp ly hôn và nuôi con chung. Đề nghị, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn, nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Từ những tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Sau khi nghe lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định, [1] Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn bà D có mặt, bị đơn ông T đã được triệu tập đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng để bị đơn ông T thực hiện các quyền và ngh a vụ của mình khi tham gia giải quyết vụ án. Việc bị đơn ông T vắng mặt tại phiên tòa là cố tình nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn bà D khởi kiện tranh chấp ly hôn và nuôi con chung đối với bị đơn ông T, ông T có hộ khẩu thường trú tại Ấp T, xã M, huyện P, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng và quan hệ pháp luật tranh chấp là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Theo đơn xin ly hôn, bà D khởi kiện ly hôn với ông T; yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Quốc Bình, sinh ngày 04/02/2005 và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Quá trình tố tụng, bà D giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ly hôn, nuôi con chung. Ông T không hợp tác, không tham gia tố tụng giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà D:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông T chung sống với nhau từ năm 2000, hôn nhân là tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Dầu Tiếng vào ngày 15/4/2003. Hôn nhân giữa bà D và ông T đã thực hiện đúng thủ tục quy định nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Trong thời gian chung sống, bà D và ông T xảy ra mâu thu n, nguyên nhân do sống chung không hợp, không ai quan tâm, chăm sóc nhau; ông T lại không lo làm ăn hay uống rượu; hiện vợ chồng không còn tình cảm, đã sống ly thân từ nhiều năm nay. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông T cố tình vắng mặt, điều này thể hiện bị đơn không có thiện chí hòa giải để hàn gắn tình cảm. Thấy mâu thu n giữa vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà D được ly hôn với ông T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà D và ông T có Có 02 con chung tên Trần  T K, sinh ngày 15/7/2000 và Trần Quốc B, sinh ngày 04/02/2005. Xét thấy, cháu B cũng có nguyện vọng được sống cùng với mẹ nên Hội đồng xét xử giao cháu cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Đối với con chung Trần  T K đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

[4.3] Về cấp dưỡng: Bà D tự nguyện nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng, đây là ý kiến tự nguyện của bà D và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4.4] Về tài sản chung: Bà D xác định tự thoả thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4.5] Về nợ chung: Bà D không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng về quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa cũng như nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[6] Bà D tự nguyện chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 19, 53, 56, 81, 82, 83, 84, 85, 107 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Lê Thị D và ông Trần Văn T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị D được ly hôn với ông Trần Văn T.

1.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Bà Lê Thị D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Quốc B, sinh ngày 04/02/2005 cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của bà D về việc không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Trần  T K đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị D không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí:

Bà Lê Thị D phải chịu toàn bộ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số: AA/2021/0006960 ngày 25/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

3. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 03/3/2022).

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về