Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 37/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 37/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 108/2021/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L; nơi ĐKHKTT:  quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú:  phường Đông Hải 1, quận Hải An, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Ngô Văn S; nơi cư trú: quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ dân sự ly hôn, quá trình giải quyết tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 1999 chị Trần Thị L và anh Ngô Văn S kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 03/8/1999. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên đánh cãi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng từ năm 2016, gia đình và bạn bè có khuyên giải nhưng không có kết quả. Chị và anh S đã sống ly thân mỗi người một nơi từ năm 2016 đến nay không còn liên quan về tình cảm cũng như về kinh tế với anh S.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị Trần Thị L và anh Ngô Văn S có hai con chung là Ngô T T, sinh ngày 28/8/1999 và Ngô T Đ, sinh ngày 19/5/2006. Con chung Ngô T T đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; con chung Ngô T Đ ở với anh S từ khi vợ chồng sống ly thân và nguyện vọng của cháu Ngô T Đ mong muốn được ở với anh S nên chị L đồng ý việc giao cháu Ngô T Đ cho anh S nuôi, không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Trần Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Ngô Văn S vắng mặt tại các phiên hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có quan điểm theo yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L nhưng trong hồ sơ có tài liệu thể hiện việc Tòa án đã tống đạt các Thông báo, Quyết định cho người nhà anh S nhận thay và cam đoan sẽ giao lại cho anh S. Đồng thời Tòa án tiến hành niêm yết các Thông báo và Quyết định theo quy định của pháp luật Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án đã thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56; các điều 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Trần Thị L được ly hôn anh Ngô Văn S. Về con chung Ngô T T đã trưởng thành nên chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết; chấp nhận yêu cầu của chị L và cũng là nguyện vọng của cháu Ngô T Đ: Giao con Ngô T Đ, sinh ngày 19/5/2006 cho anh S nuôi, việc cấp dưỡng nuôi con chị L không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu, nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà, Tòa án nhận định:

Xét về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Ngô Văn S có nơi cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn là anh Ngô Văn S, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt và niêm yết các văn bản theo quy định của pháp luật, anh S không có quan điểm giải quyết vụ án, vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng, vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan hệ hôn nhân:

[3] Điều kiện và quá trình kết hôn như chị L đã trình bày, hôn nhân giữa chị L và anh S là hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh chị bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính cách không phù hợp. Mâu thuẫn căng thẳng, chị L và anh S đã sống ly thân mỗi người một nơi từ năm 2016 không còn liên quan về tình cảm cũng như về kinh tế. Hội đồng xét xử xét thấy, vì khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L theo quy định tại khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về việc nuôi con:

[4] Chị Trần Thị L và anh Ngô Văn S có hai con chung là Ngô T T, sinh ngày 28/8/1999 và Ngô T Đ, sinh ngày 19/5/2006. Hội đồng xét xử xét thấy, anh S không có quan điểm về việc nuôi con. Con chung Ngô T T, sinh ngày 28/8/1999 đã trưởng thành, chị L không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Đối với cháu Ngô T Đ từ khi anh chị sống ly thân đến nay, anh S vẫn đảm bảo điều kiện chăm sóc, nuôi dạy. Vì vậy, giao con Ngô T Đ cho anh S nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật, tình hình thực tế hiện nay và cũng là nguyện vọng của cháu Đạt. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị L không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

- Về việc chia tài sản:

[5] Chị Trần Thị L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[6] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Trần Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56; 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; khoản 3 Điều 228; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Trần Thị L được ly hôn anh Ngô Văn S.

2. Về việc nuôi con:

Chị Trần Thị L và anh Ngô Văn S có hai con chung là Ngô T T, sinh ngày 28/8/1999 và Ngô T Đ, sinh ngày 19/5/2006. Con chung Ngô T T đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết; giao con Ngô T Đ cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi ho c có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị L không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản:

Chị Trần Thị L không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

Chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007001 ngày 20 tháng 5 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Trần Thị L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Ngô Văn S được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án ho c bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án ho c bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 37/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về