Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 215/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2022 về: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, SN: 2000 Trú tại: thôn T, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định

- Bị đơn: Anh Lê Đức T, SN: 1990 Trú tại: thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định (Chị N có mặt, anh T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện xin ly hôn, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn chị Trần Thị N trình bày:

Chị với anh Lê Đức T tự nguyện đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện P ngày 07/5/2020. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc. Đến năm 2021 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng nhiều quan điểm trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và cũng từ thời gian này vợ chồng chị sống ly thân cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị nhận thấy vợ chồng mâu thuẫn nghiêm trọng, vợ chồng sống không hạnh phúc nhưng không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Đức T.

Chị với anh Lê Đức T có 01 người con chung tên là Lê Đức Gia H, sinh ngày 12/5/2017. Hiện tại sức khỏe cháu H phát triển bình thường và đang ở với chị từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn thì khi ly hôn chị xin nhận nuôi cháu H. Chị không tranh chấp nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Lê Đức T vắng mặt.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát tại phiên tòa:

Về tố tụng: việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của chị N kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của Luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn anh Lê Đức T vắng mặt nên chưa chấp hành nghiêm quy định của pháp luật.

Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị N được ly hôn anh T, giao con chung là cháu Lê Đức Gia H, sinh ngày 12/5/2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung các đương sự không tranh chấp nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Chị Trần Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Đức T. Đây là tranh chấp về Hôn nhân – Gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên yêu cầu khởi kiện của chị N được Tòa án chấp nhận.

Bị đơn anh Lê Đức T mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham dự phiên tòa nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án và tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung tranh chấp:

[2.1]. Chị Trần Thị N với anh Lê Đức T tự nguyện đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn vào ngày 07/5/2020 tại UBND xã C, huyện P nên quan hệ hôn nhân giữa chị N với anh T được pháp luật thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[2.2]. Theo nguyên đơn chị Trần Thị N trình bày:

Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống hạnh phúc. Đến năm 2021 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng nhiều quan điểm trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và cũng từ thời gian này chị với anh T sống ly thân cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị nhận thấy vợ chồng mâu thuẫn nghiêm trọng, vợ chồng sống không hạnh phúc nhưng không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Đức T.

[2.3]. Xét yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị N, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Đã là vợ chồng, lẽ ra chị Trần Thị N với anh Lê Đức T phải có nghĩa vụ quan tâm, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau, phải cùng có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống hôn nhân. Tuy nhiên, do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Từ năm 2021 vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai nhưng các bên không thể hàn gắn tình cảm để chung sống hạnh phúc nên chị N yêu cầu giải quyết ly hôn anh T. Đối với bị đơn anh Lê Đức T nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án nhưng anh T đều vắng mặt. Tuy nhiên, qua kết quả xác minh bà Võ Thị H là mẹ ruột anh T thì được biết anh T hiện nay đang cư trú và sinh sống cùng với gia đình của bà tại thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định, gia đình bà xác định vợ chồng anh T, chị N phát sinh mâu thuẫn nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2021. Việc anh T không chấp hành sự triệu tập của Tòa án nên phải chịu hậu quả pháp lý từ việc không chấp hành sự triệu tập. Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị N với anh T đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Đức T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình – 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N.

[2.4]. Về con chung:

Chị Trần Thị N với anh Lê Đức T có 01 người con chung tên là Lê Đức Gia H, sinh ngày 12/5/2017. Hiện nay sức khỏe cháu H phát triển bình thường và đang ở với chị N từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn thì khi ly hôn chị N xin nhận nuôi cháu H. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét yêu cầu xin nuôi con của chị N, Hội đồng xét xử thấy rằng: việc giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng phải xuất phát từ việc xem xét hoàn cảnh và điều kiện thực tế của người được trực tiếp nuôi con phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con để con được phát triển bình thường. Cháu H hiện tại đang ở với chị N, quen với cách sống và sinh hoạt tại gia đình chị N nên Hội đồng xét xử giao cháu Lê Đức Gia H, sinh ngày 12/5/2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Nguyệt không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.5]. Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí DSST: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV, chị Trần Thị N phải chịu án phí ly hôn.

[4]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát tại phiên tòa là phù hợp, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N về việc yêu cầu ly hôn anh Lê Đức T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị N được ly hôn anh Lê Đức T.

1.2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Trần Thị N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Đức Gia , sinh ngày 12/5/2017. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Án phí DSST:

+ Án phí ly hôn: Chị Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Tuy nhiên, chị N đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0.... ngày .... tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P, nay được khấu trừ.

3. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt, thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cát - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về