Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 94/2021/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2021 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXX-ST ngày 14 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M- SN 1987 “Có mặt”;

HKTT: Số 02/33 C, phường Đông V, TP T, tỉnh Thanh Hóa.

Đa chỉ hiện nay: Lô 317 MB 530 phường Đông V, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Quốc T - SN 1982 “ Vắng mặt”;

HKTT: Số 02/33 C, phường Đông V, TP T, tỉnh Thanh Hóa.

Đa chỉ hiện nay: Nhà A1 chung cư C, M, phường Đông V, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

(Anh Trịnh Quốc T có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trịnh Quốc T kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tr, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến giữa năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ giữa năm 2016 đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con: Anh chị có 01 con chung: Cháu Trịnh Minh A, sinh ngày 07/5/2012 . Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi cháu Minh A và không đề nghị anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Ti bản tự khai anh Trịnh Quốc T trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh đồng ý như chị M trình bày. Anh thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân nhau từ giữa năm 2016 cho đến nay. Nay chị M có đơn xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên đồng ý ly hôn đề nghị Tòa giải quyết.

Về con: Anh chị có một con chung như chị M trình bày là đúng. Ly hôn anh đề nghị giao cháu Minh A cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 2/2022 đến khi cháu Trịnh Minh A đủ tuổi thành niên.

Về tài sản, công nợ: Anh T không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T để tham gia phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh T đều vắng mặt có lý do .

Tại phiên tòa hôm nay chị M vẫn giữ nguyên quan điểm về phần hôn nhân và tài sản, công nợ. Về phần con chị thay đổi quan điểm như sau: Chị đề nghị giao cháu Minh A cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 2/2022 đến khi cháu Minh A đủ tuổi thành niên.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành của nguyên đơn, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 để xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, bị đơn cư trú tại thành phố Thanh Hóa. Do vậy Tòa án nhân dân thành phố thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ đối với anh T để tham gia phiên tòa nhưng anh T đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh T đề nghị Tòa án tiến hành xét xử. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của BLTTDS Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt anh T là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M và anh Trịnh Quốc T kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án anh chị đều thừa nhận vợ chồng chung sống có mâu thuẫn xảy ra và đã sống ly thân nhau. Kết quả thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện: Quá trình chung sống anh chị đã xảy ra mâu thuẫn. Do vợ chồng mâu thuẫn nên giữa năm 2016 chị M đã chuyển đi nơi khác sống, còn anh M vẫn sinh sống tại địa phương. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đều thống nhất ly hôn. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị M, xử cho chị M và anh T được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con: Anh chị có 01 con chung là cháu Trịnh Minh A, sinh ngày 07/5/2012. Cả hai đều thống nhất giao cháu Minh A cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 2/2022 cho đến khi cháu Minh A đủ tuổi thành niên. Xét việc thỏa thuận của anh chị là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[4] Về tài sản, công nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và anh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ theo quy định của pháp luât tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/QH14.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Khon 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 BLTTDS. Điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn với anh Trịnh Quốc T.

Về con: Công nhận cháu Trịnh Minh A, sinh ngày 07/5/2012 là con chung của chị M và anh T. Giao cháu Minh A cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 2/2022 cho đến khi cháu Minh A đủ tuổi thành niên.

Anh T có quyền đi lại thăm nom con chung, không được ai cản trở.

Về tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí: Chị M phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001482 ngày 06/12/2021 tại chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị M đã nộp đủ án phí).

Anh Trịnh Quốc T phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ.

Ngưi được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện tho quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về