Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 46/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

 Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 118/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2022 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2022/QĐXX-ST ngày 24 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 37/QĐHPT – ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Y- Sinh năm 1983 ĐKHKTT: Xã Châu Quế Hạ, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái Đăng ký tạm trú : Tổ 3, phường Bắc Cường, thành phố L, tỉnh Lào Cai ( Có mặt) Bị đơn: Anh Hà Xuân H- Sinh năm 1981 Địa chỉ: Xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, tỉnhYên Bái Đăng ký tạm trú: Tổ 03, phường Bắc Cường, thành phố L, tỉnh Lào Cai ( Có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Phạm Thị Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Y và anh Hà Xuân H có tự nguyện yêu thương tìm hiểu và tiến tới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào ngày 02/12/2011 tại UBND xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh chị bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi nhau, đã có lần anh H đánh chị Y trước đông người, trong cuộc sống của vợ chồng anh H không quan tâm đến vợ con. Hiện nay anh chị đã sống ly thân. Anh chị cùng tạm trú tại tổ 3, phường Bắc Cường, thành phố L, tỉnh Lào Cai, từ khi xảy ra mâu thuẫn chị Y về sống tại nhà em ruột của anh H. Hiện nay anh chị vẫn phải đi thuê nhà, ở Lào Cai hiện tại anh chị chưa có nhà riêng. Sau mỗi lần xảy ra mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình, bố mẹ hai bên đã nhiều lần khuyên bảo nhưng đều không có kết quả. Đến nay tình cảm vợ chồng không còn, chị Y đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Y được ly hôn với anh H.

Về con chung: Quá trình chung sống chị Y và anh H có 01 con chung: Cháu Hà Đức V, sinh ngày 27/10/2012. Khi ly hôn chị Y có nguyện vọng đề nghị Tòa án giải quyết cho chị là người trực tiếp nuôi cháu V cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Chị Y yêu cầu anh H phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.500.000 đồng/ tháng.

Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa anh Hà Xuân Htrình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị Phạm Thị Y có tự nguyện yêu thương và tiến tới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật theo những gì chị Y trình bày về ngày tháng năm cũng như địa điểm đăng lý kết hôn là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra cãi vã, bất đồng quan điểm sống. Tuy nhiên việc chị Y khai anh H đánh vợ chỗ đông người là không có. Vợ chồng anh chị hiện nay đã sống ly thân, Hiện nay anh H vẫn đang ở trọ tại Tổ 03, phường Bắc Cường, thành phố L, tỉnh Lào Cai, còn chị Y hiện nay đang ở nhà em trai anh H. Đến nay, anh H nhận thấy không còn tình cảm với chị Y nên đồng ý với ly hôn với chị Phạm Thị Y.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung: Cháu Hà Đức V, sinh ngày 27/10/2012. Khi ly hôn anh H có nguyện vọng là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu V cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng anh H không yêu cầu chị Y phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Hiện nay anh H đang đi làm công trình xây dựng cho bạn chủ yếu ở thành phố, thi thoảng phải đi huyện làm, thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 14.000.000 đồng/ tháng, thu nhập khác 5.000.000 đồng/ tháng. Còn chị Y hiện nay đang làm giáo viên lương một tháng là 10.500.000 VNĐ/ tháng.

Tại phiên toà, chị Phạm Thị Yvẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu khởi kiện của mình. Bị đơn anh Hà Xuân Hgiữ nguyên quan điểm yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Y, và yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được nuôi cháu Hà Đức V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn nộp đầy đủ các chứng cứ theo quy định. Tranh chấp cần giải quyết trong vụ án là tranh chấp hôn nhân gia đình, theo khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai. Tại phiên toà, nguyên đơn chị Phạm Thị Yvà bị đơn anh Hà Xuân Hcó mặt. Tòa án tiến hành xét xử .

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Ytrên cơ sở căn cứ lời khai của đương sự, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy:

Chị Phạm Thị Yvà anh Hà Xuân Hđăng ký kết hôn 02/12/2011 tại UBND xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái trên cơ sở kết hôn tự nguyện. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định hôn nhân giữa chị Phạm Thị Yvà anh Hà Xuân Hlà hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do trong quá trình chung sống anh chị không có tiếng nói chung, không còn hòa hợp nhau về lối sống cũng như suy nghĩ nên vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng thường hay xảy ra xích mích, cãi cọ nhau, vợ chồng không có sự thông cảm, chia sẻ. Vợ chồng anh chị sống ly thân chị Y sống nhờ nhà em trai anh H còn anh H sống tại nhà thuê tại tổ 03, phường Bắc Cường, thành phố L, không ai quan tâm đến ai, không có quan hệ gì về tình cảm và kinh tế. Đến nay chị Phạm Thị Yxác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Y đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hà Xuân H, anh H đồng ý yêu cầu xin ly hôn của chị Y. Do vậy cần chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị Ylà có căn cứ, phù hợp theo Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung là cháu Hà Đức V, sinh ngày 27/10/2012. Khi ly hôn chị Y đề nghị Tòa án giải quyết cho chị là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu V và yêu cầu anh H cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung mỗi tháng là 1.500.000 đồng ( Một triệu năm trăm nghìn đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, hiện nay chị Y có công việc ổn định và có thu nhập, hiện nay chị Y đang làm giáo viên thu nhập hàng tháng là 10.500.000 VNĐ/ tháng. Mặt khác khi lấy ý kiến của con trên 7 tuổi, cháu Hà Đức V có nguyện vọng ở cùng với mẹ, từ khi chị Y và anh H xảy ra mâu thuẫn cháu V ở cùng với mẹ. Trong quá trình giải quyết vụ án anh H có khai làm nghề xây dựng, thu nhập hàng tháng trung bình lương chính 14.000.000 đồng/ tháng, thu nhập khác 5.000.000 đồng/ tháng, công việc của anh H thi thoảng phải đi huyện công tác vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy việc chăm sóc, giáo dục cháu V chị Y làm nghề giáo viên đảm bảo về thời gian và điều kiện chăm sóc hơn so với điều kiện công việc của anh H. Đối với yêu cầu anh H cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung mỗi tháng là 1.500.000 đồng ( Một triệu năm trăm nghìn đồng) của chị Y Hội đồng xét xử xét thấy anh H có nghề nghiệp ổn định vì vậy yêu cầu cấp dưỡng của chị Y là có căn cứ cần được chấp nhận.

[4] Về quan hệ tài sản: Chị Phạm Thị Ykhông yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị Yphải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm, anh Hà Xuân Hchịu 300.000 đồng tiền cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 ; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Y.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Yđược ly hôn anh Hà Xuân H. Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Y và anh Hà Xuân Hchấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Ylà người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Hà Đức V, sinh ngày 27/10/2012 đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Anh Hà Xuân H phải cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 VNĐ( Một triệu năm trăm nghìn đồng) Anh Hà Xuân H có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Yphải chịu 300.000VNĐ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000VNĐ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001586 ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lào Cai. Chị Phạm Thị Yđã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Anh Hà Xuân H phải chịu 300.000 VNĐ ( Ba trăm nghìn) tiền án phí cấp dưỡng.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Phạm Thị Y và bị đơn anh Hà Xuân H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về