Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN

 Ngày 13 tháng 04 năm 2022 tại Toà án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 về việc xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 11 tháng 3 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐST-HNGD ngày 29/3/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bế Thị L, sinh năm 1994, có mặt.

- Bị đơn: Anh Lý Văn N, sinh năm 1992, vắng mặt. Cùng địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 07/1/2022, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Bế Thị L trình bày:

Chị Liên và anh Lý Văn N quen biết nhau từ năm 2014 qua bạn bè giới thiệu, sau một thời gian tìm hiểu thì anh, chị chính thức yêu đương, tháng 10 năm 2014 được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi cưới chị L và anh N về sống chung cùng với bố mẹ chồng tại thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Đến ngày 27/7/2015 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tri Phương, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc. Sau khi cưới, thời gian đầu anh, chị sống chung hạnh phúc, mâu thuẫn giữa vợ chồng bắt đầu từ đầu năm 2020 nguyên nhân là anh N thường xuyên ghen tuông, xúc phạm, chửi bới chị L, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, người thân và bạn bè đã tiến hành khuyên giải nhưng không có kết quả. Hiện tại anh, chị đã ly thân từ tháng 10/2021 cho đến nay và chị L đã chuyển về sinh sống cùng với bố mẹ đẻ tại thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa nên xin được ly hôn với anh Lý Văn N.

Về con chung: Chị Bế Thị L và anh Lý Văn N có 01 con chung là Lý Thị Anh T, sinh ngày 20/8/2015, hiện nay đang sống cùng với anh Lý Văn N tại thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Khi ly hôn chị Liên đề nghị anh N nuôi dưỡng và chăm sóc con chung và chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, các khoản nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết. Bị đơn là anh Lý Văn N không nhất trí lý hôn, và cũng không có ý kiến gì về việc nuôi con chung về tài sản chung, các khoản nợ chung anh N cũng không yêu cầu tòa án giải quyết. Sau buổi hòa giải nhưng không thành, anh N không tiến hành hợp tác để giải quyết vụ án, không có mặt theo giấy triệu tập để tham gia phiên tòa.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn phát biểu ý kiến:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án đã xác định đúng thẩm quyền, đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, đúng quan hệ pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn anh Lý Văn N đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa những vẫn vắng mặt không có lý do, do vậy anh Lý Văn N không chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ cùng tài liệu chứng cứ được công khai tại phiên tòa xét thấy: Về quan hệ hôn nhân: Xác định mâu thuẫn giữa chị Bế Thị L và anh Lý Văn N là trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Hiện anh, chị đã ly thân từ tháng 10/ 2021. Do vậy yêu cầu xin ly hôn của chị Bế Thị L và anh Lý Văn N là có căn cứ; về con chung: Giao quyền chăm sóc giáo dục con chung cho anh Lý Văn N và chị Bế Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản, các khoản nợ chung: Không xem xét giải quyết; về án phí: Chị Bế Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quyền khởi kiện: Chị Bế Thị L và anh Lý Văn N quen biết nhau, sau một thời gian tìm hiểu, hai bên tự nguyện tiến tới hôn nhân và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán tại địa phương có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã Tri Phương, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Hiện anh Lý Văn N là bị đơn trong vụ án vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Do đó, chị Bế Thị L có quyền yêu cầu ly hôn anh Lý Văn N là đúng theo quy định tại Điều 51 của Luật Hôn nhân gia đình và Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc vắng mặt của anh Lý Văn N tại phiên tòa: Đã được tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng anh N vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vụ án.

[3] Về yêu cầu xin ly hôn: Theo như lời khai của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy Chị Bế Thị L và anh Lý Văn N kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc hay bị lừa dối được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tri Phương, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Trong quá trình chung sống giữa anh, chị xảy ra nhiều mâu thuẫn và đã ly thân từ tháng 10/2021 cho đến nay. Hội đồng xét xử nhận thấy Chị Bế Thị L và anh Lý Văn N không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, tình cảm vợ chồng giữa anh chị thực sự đã hết do vậy yêu cầu xin ly hôn của chị Bế Thị L được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Bế Thị L đề nghị anh Lý Văn N nuôi dưỡng và chăm sóc con chung là Lý Thị Anh Thư, sinh ngày 20/8/2015 và chị Bế Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Lý Văn N chỉ có ý kiến là về vấn đề con chung do vợ chồng anh chị tự thỏa thuận, nhưng đến thời điểm này anh Lý Văn N chưa cung cấp được cho Toà về sự thỏa thuận trên, tiến hành xác minh nhận thấy cháu Lý Thị Anh T hiện đang sinh sống cùng với anh N, hiện anh N có nơi cư trú rõ ràng, có thu nhập ổn định, hiện nay cháu đang theo học tại trường Tiểu học trên địa bàn. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải xáo trộn việc sinh hoạt và học tập của cháu Lý Anh T khi chị Bế Thị L và anh Lý Văn N ly hôn do đó giao con chung cho anh Lý Văn N chăm sóc và nuôi dưỡng là có cơ sở và chị Bế Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung do các đương sự không yêu cầu do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án thì chị Bế Thị L phải chịu án phí sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Điều 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bế Thị L được ly hôn với anh Lý Văn N.

2. Về con chung: Anh Lý Văn N được quyền nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục con chung là Lý Thị Anh T, sinh ngày 20/8/2015 đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và chị Bế Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Bế Thị L được quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bế Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Chị Bế Thị L đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0006288 ngày 17 tháng 01 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Bế Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Lý Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về