Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 146/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 146/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 09 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 122/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 123/2021/QĐST-HGNĐ, ngày 29 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Hữu D; nơi cư trú: Thôn H, xã T, thị xã K, tỉnh H;

vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Đào Thị N; nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Phạm Hữu D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Đào Thị N kết hôn với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyên, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Hải Dơng vào năm 2005, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên dẫn đến vợ chồng thường hay xảy ra cãi mắng nhau, cuộc sống vợ chồng ngột ngạt, căng thẳng, không có tiếng nói chung, mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn nên chị N đã về nhà bố mẹ đẻ tại thôn T, xã L, huyện T, thành phố H sinh sống từ năm 2009 đến nay vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi không còn quan tâm nhau. Nay để ổn định cuộc sống anh D đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho anh được ly hôn chị Đào Thị N.

- Về con chung: Anh và chị N có 01 con chung tên Phạm Quang S, sinh ngày 14/7/2005. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con chung do anh D trực tiếp nuôi Dỡng, chăm sóc khi ly hôn để ổn định cuộc sống học tập cho con chung, anh D đề nghị được tiếp tục nuôi con chung.

- Về nghĩa vụ cấp Dỡng nuôi con chung: Để anh và chị N tự thỏa thuận giải quyết với nhau không yêu cầu Tòa án.

- Về tài sản chung: Anh D trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Đào Thị N vắng mặt tại phiên tòa, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo cho chị N biết việc anh D xin ly hôn, song chị N không đến Tòa án trình bày quan điểm và cũng không có văn bản, giấy tờ nào gửi đến Tòa án trình bày ý kiến về việc anh D xin ly hôn. Do vậy căn cứ theo quy định của pháp luật Tòa án đã tiến hành triệu tập và tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về việc kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, tuy nhiên đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai chị N vẫn vắng mặt không có ý kiến và cũng không có văn bản trình bày về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh D gửi đến Tòa án.

Qua kết quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa sơ thẩm. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng và đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng; bị đơn chị Đào Thị N chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình quy định tại Điều 70, 72 và Điều 73 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh Phạm Hữu D tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Đào Thị N; về quan hệ hôn nhân: Cho anh Phạm Hữu D được ly hôn chị Đào Thị N; về con chung: Giao con chung tên Phạm Quang S, sinh ngày 14/7/2005, cho anh D nuôi Dỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; về nghĩa vụ cấp Dỡng nuôi con chung: Anh D đề nghị để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên kiểm sát viên không đề cập giải quyết; về tài sản chung: Anh D trình bày vợ chồng không yêu cầu Tòa án giải quyết, bị đơn chị N vắng mặt chưa có ý kiến trình bày về tài sản chung, nên kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này; về án phí: Nguyên đơn anh Phạm Hữu D phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng Nguyên đơn anh Phạm Hữu D vắng mặt, song có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn chị Đào Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân Anh D và chị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Ủy ban nhân dân xã T, huyện K (nay là thị xã K), tỉnh Hải Dơng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 30, ngày 18/4/2005 là hôn nhân hợp pháp. Tài liệu, chứng cứ thể hiện: Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, do mâu thuẫn căng thẳng không thể hàn gắn được nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2009 đến nay không còn quan tâm nhau, nay anh D quyết tâm đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị N. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập chị N đến Tòa án để trình bày quan điểm về việc anh D xin ly hôn, song chị N đều vằng mặt và cũng không có văn bản, tài liệu nào gửi đến Tòa án, tài liệu xác minh tại gia đình chị N thể hiện chị N không có ý kiến gì về việc anh D ly hôn, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về việc kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, tuy nhiên đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai chị N vẫn vắng mặt điều đó thể hiện chị N không mong muốn hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Hội đồng xét xử, xét: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh D và chị N đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được và cho đến thời điểm hiện nay tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ với nhau được nữa, do vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh D, cho anh D được ly hôn chị N.

[3] Về con chung Anh D và chị N có 01 con chung tên Phạm Quang S, sinh ngày 14/7/2005. Tài liệu, chứng cứ thể hiện kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con chung do anh D trực tiếp nuôi Dỡng, chăm sóc đảm bảo tốt mọi mặt, khi ly hôn anh D có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con chung, chị N vắng mặt tại phiên tòa không có ý kiến trình bày về con chung. Xét điều kiện nuôi Dỡng con chung của anh D và chị N là như nhau, tuy nhiên giao con chung cho ai nuôi Dỡng cần xem xét mọi mặt để đảm bảo quyền lợi cho con chung chưa thành niên, mặt khác con chung có nguyện vọng được sống cùng bố. Vì vậy cần tiếp tục giao cho anh Phạm Hữu D trực tiếp nuôi con chung cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi và có khả năng lao động là phù hợp quy định tại các Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về nghĩa vụ cấp Dỡng nuôi con chung: Anh D trình bày để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết, bị đơn chị N vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung Anh D trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, bị đơn chị N vắng mặt chưa có ý kiến trình bày về tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí sơ thẩm Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Anh Phạm Hữu D phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 92, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Phạm Hữu D được ly hôn chị Đào Thị N.

2. Về con chung: Giao con chung tên Phạm Quang S, sinh ngày 14/7/2005, cho anh Phạm Hữu D trực tiếp nuôi Dỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con chung được quyền thăm nom và chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Phạm Hữu D phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015803, ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố H. Anh Phạm Hữu D đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 146/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:146/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về