Bản án về ly hôn số 975/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 975/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/08/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 836/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thị Ngọc M, sinh năm 1993; nơi cư trú: Hẻm A đường Nguyễn Văn Linh (tổ 2, phường Nguyễn Trãi), thành phố KonTum, tỉnh KonTum (vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Hoàng A, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tổ 20, khu phố 4, P. Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn, T. Bình Định, hiện đang bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn (vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10-6-2022 của chị Dương Thị Ngọc M và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Chị và anh Phạm Hoàng A kết hôn vào ngày 10/6/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Nguyễn Trãi, TP. KonTum, T. KonTum theo giấy chứng nhận kết hôn số 14, trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu. Kể từ ngày chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng hai năm, đến đầu năm 2017 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Phạm Hoàng A không lo làm ăn, thường xuyên chơi bời, đi sớm về khuya, sống thiếu trách nhiệm với gia đình, từ đó dẫn đến đời sống vợ chồng không hòa hợp và không hạnh phúc. Đến tháng 4/2018 vợ chồng chị sống ly thân cho đến nay, phần ai nấy sống, không còn quan tâm chăm sóc gì đến nhau. Chị xác định mâu thuẫn vợ chồng chị đã rất trầm trọng, không có khả năng hàn gắn và tình cảm vợ chồng cũng không còn nên chị yêu cầu Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Hoàng A để chị ổn định cuộc sống lo làm ăn nuôi con.

Về con chung: Chị và anh Phạm Hoàng A có một con chung tên Phạm Hoàng H, sinh ngày 22-7-2017, hiện sức khỏe của cháu H vẫn bình thường và đang sống cùng với chị. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn và không yêu cầu anh Phạm Hoàng A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 12-7-2022, bị đơn anh Phạm Hoàng A trình bày:

Về thời gian, điều kiện kết hôn anh khai thống nhất như lời trình bày của chị M. Về nguyên nhân mâu thuẫn, theo anh kể từ ngày chung sống thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc. Đến đầu năm 2017 vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung và do vợ chồng không sống chung với nhau, mỗi người ở mỗi nơi nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Sau đó anh đi chấp hành án phạt tù thời gian dài dẫn đến tình cảm vợ chồng khó có thể hàn gắn được, nên chị M yêu cầu ly hôn với anh, anh đồng ý.

Về con chung: Anh khai thống nhất như chị M đã trình bày. Anh đồng ý yêu cầu của chị M được trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn. Về cấp dưỡng nuôi con, anh sẽ cấp dưỡng nuôi con theo khả năng của anh.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán đã thực hiện đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thơi điêm xet xư sơ thâm . Tại phiên tòa sơ thẩm , Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vê quan điêm giai quyêt vu an : Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của chị Dương Thị Ngọc M được ly hôn với anh Phạm Hoàng A và giao con chung là cháu Phạm Hoàng H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Chị Dương Thị Ngọc M, là nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 26-7-2022. Anh Phạm Hoàng A, là bị đơn trong vụ án có đơn đề nghị giải quyết và xét xử vắng mặt đề ngày 12-7-2022. Theo qui định tại khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu ly hôn của chị M, căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 14 ngày 10/6/2014 do UBND phường Nguyễn Trãi, thành phố KonTum, tỉnh KonTum cấp, căn cứ lời trình bày của các đương sự và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Dương Thị Ngọc M và anh Phạm Hoàng A là hôn nhân hợp pháp. Chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Hoàng A vì mâu thuẫn giữa chị và anh Phạm Hoàng A đã trầm trọng không có khả năng hàn gắn, hiện vợ chồng chị đã sống ly thân, tình cảm không còn, không ai còn sự quan tâm, chăm sóc đến nhau. Bị đơn anh Phạm Hoàng A đồng ý ly hôn thể hiện tại biên bản lấy lời khai ngày 12-7-2022. Hội đồng xét xử nhận thấy hôn nhân giữa chị M và anh Phạm Hoàng A không còn thương yêu, quý trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống vợ chồng, do đó hôn nhân giữa chị M và anh Phạm Hoàng A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của chị M là có căn cứ, phù hợp theo qui định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nuôi con chung: Chị M và anh Phạm Hoàng A có 01 con chung tên Phạm Hoàng H, sinh ngày 22-7-2017, hiện sức khỏe của cháu H vẫn bình thường và đang sống cùng với chị M. Xét yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn của chị M là có căn cứ, được anh Phạm Hoàng A đồng ý thể hiện tại biên bản lấy lời khai ngày 12-7-2022, phù hợp với quy định của pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu anh Phạm Hoàng A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 thì chị Dương Thị Ngọc M phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[4] Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị chấp nhận yêu cầu được ly hôn và được trực tiếp nuôi con chung của chị M là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Dương Thị Ngọc M được ly hôn với anh Phạm Hoàng A.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Phạm Hoàng H, sinh ngày 22-7-2017 cho chị Dương Thị Ngọc M trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2.Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không bên nào được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Dương Thị Ngọc M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004114 ngày 21/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn. Chị M đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Dương Thị Ngọc M và anh Phạm Hoàng A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 975/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:975/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về