TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 75/2022/HNGĐ-PT NGÀY 30/06/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 66/2022/TLPT- HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 về việc “Xin ly hôn”. Do Bản án sơ thẩm số 14/2022/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 3 năm 2022 của Toà án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 119/2022/QĐPT- HNGĐ ngày 14 tháng 06 năm 2022, giữa:
Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Tr, sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu: Số 6 ngõ 141/66/1 phố G, tổ 17 (tổ 25 cũ), phường T, quận H, thành phố Hà Nội; chỗ ở: Số 13 ngõ 141/150/23 phố G, tổ 19, phường T, quận H, TP. Hà Nội, có mặt.
Bị đơn kháng cáo: Anh Hồ Minh T, sinh năm 1984; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Số 6 ngõ 141/66/1 phố G, tổ 17 (tổ 25 cũ), phường T, quận H, TP. Hà Nội, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Chị Đỗ Thị Tr trình bày: Tôi và anh Hồ Minh T tự nguyện xây dựng gia đình và có đăng ký kết hôn ngày 07/01/2014 tại UBND phường T, quận H, thành phố Hà Nội. Trước khi kết hôn chúng tôi có thời gian tìm hiểu, yêu nhau và cả 2 cùng kết hôn lần đầu. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống về mọi vấn đề trong gia đình, đặc biệt là vấn đề kinh tế, cụ thể: Công việc của anh T không ổn định, thu nhập thấp, anh T không tu chí mà ham chơi lô đề, cờ bạc và bị thua lỗ rất nhiều, số tiền thua bạc lên đến hàng tỷ đồng. Để có tiền đánh bạc, anh T nhiều lần lấy tiền của tôi (Tiền mặt, tiền trong tài khoản), đặt xe máy, máy tính… Tôi cùng bố mẹ anh Tiến nhiều lần phải trả nợ thay cho anh T. Gia đình đã nhiều lần khuyên giải, anh T cũng viết giấy cho tôi hứa hẹn từ bỏ, nhưng anh vẫn không thay đổi. Tháng 7/2021 giữa lúc tình hình dịch bệnh covid phức tạp, anh T đã mang Giấy khai sinh của con, sổ hộ khẩu, máy tính của tôi đi cầm đồ để lấy tiền đánh bạc. Việc làm của anh T đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc làm của tôi và việc học online của con do không có máy tính để hoạt động. Nhưng chưa dừng lại ở đó do nợ tiền của các chủ nợ nên các chủ nợ thường xuyên sai người đến nhà đòi nợ và đe dọa các thành viên trong gia đình làm đảo lộn cuộc sống của gia đình, nhà luôn trong tình trạng phải khóa 24/24.
Xuất phát từ đó mà mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng, vợ chồng thường xuyên to tiếng, thiếu tôn trọng và xúc phạm nhau nên tôi đã ra ngoài ở riêng, mục đích để yên ổn cuộc sống, không bị phân tâm, đồng thời để anh T suy nghĩ lại thay đổi nhận thức và giành nhiều thời gian chăm sóc con chung. Mặc dù ly thân, nhưng tôi vẫn chu cấp đồ ăn cho hai bố con; cuối tuần tôi vẫn đón con về nhà để chăm sóc. Kể từ khi tôi ra ngoài ở riêng, anh T ở nhà thêm được một thời gian nữa do không có tiền trả chi phí điện, nước nên đã bị cắt điện, nước dẫn đến việc nhà không thể ở và sinh hoạt được. Nay, tôi thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không còn hạnh phúc nên tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho chúng tôi được ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Hồ T D, sinh ngày 03/12/2014, hiện con đang ở với anh T. Ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu anh T phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay tôi đang làm Hành chính nhân sự tại Công ty cổ phần dược phẩm TW 3, tổng thu nhập gần 50 triệu đồng/tháng. Lý do con tôi ở với anh T là năm 2021 đại dịch Covid 19 nên xã hội giãn cách, các lớp học của con đóng cửa chuyển sang học online, tôi lại phải đi làm các ngày trong tuần, trong khi anh T ở nhà. Do vậy, tôi có để con chung cho anh T trông nom và hàng ngày tôi vẫn mua thức ăn cho 02 bố con.
Về tài sản chung: Tôi xác nhận vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về công nợ chung: Không có.
Anh Hồ Minh T trình bày: Quá trình kết hôn và thời gian kết hôn giữa chúng tôi như chị Tr trình bày là đúng. Trong quá trình chung sống thời gian 5 năm đầu công việc của tôi thuận lợi lúc đó chị Tr chưa đi làm nên cuộc sống bình thường, đôi khi có xảy ra mâu thuẫn nhưng sau đó mọi chuyện cũng qua đi, cuộc sống vợ chồng trở lại bình thường. Khoảng 03 năm trở lại đây công việc của tôi gặp khó khăn, thu nhập giảm sút, chị Tr đi làm có thu nhập cao hơn nên có những bất đồng. Tôi xác nhận trước đây có chơi bời lô đề, cờ bạc nên cũng có một số khoản nợ, tuy nhiên hiện nay tôi đã giải quyết xong; ngoài ra chị Tr có biểu hiện ngoại tình. Tôi xác nhận vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có chuyển biến, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2021. Nay chị Tr xin ly hôn, tôi đồng ý.
Về con chung: Đúng như chị Tr trình bày, hiện con chung đang ở với tôi. Khi ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu chị Tr cấp dưỡng. Hiện nay tôi đang kinh doanh mặt hàng hoa quả và thực phẩm sạch lương cứng 15 triệu/tháng, ngoài ra còn có thưởng 5 triệu. Tôi không đồng ý giao con cho chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về tài sản chung và vay nợ chung: Tôi xác nhận không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Bản án số 14/2022/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 3 năm 2022 của Toà án nhân dân quận H đã quyết định xử:
1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Đỗ Thị Tr và anh Hồ Minh T.
2. Con chung: Anh chị có 01 con chung là Hồ T D, sinh ngày 03/12/2014. Sau ly hôn, giao con chung là Hồ T D cho chị Đỗ Thị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi) hoặc cho đến khi có quyết định pháp luật khác thay thế.
Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh T cho đến khi có quyết định pháp luật khác thay thế.
Anh Tiến có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.
3. Tài sản chung và công nợ chung: Chị Tr, anh T xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết nên không xét.
Ngoài ra, Tòa án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/3/2022 Hồ Minh T có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giao con chung cho anh được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau ly hôn. Chị Đỗ Thị Tr không kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Anh T vẫn giữ nguyên kháng cáo và mong muốn được nuôi con sau ly hôn. Anh cũng hứa hẹn sẽ giành những gì tốt nhất cho con và sẽ cho chị Tr thường xuyên được gặp gỡ con hơn trước.
- Chị Đỗ Thị Tr đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh T. Theo chị thì, thời gian này con đang phát triển trong giai đoạn hình thành tính cách và học theo người lớn nên việc giao con cho chị nuôi ở giai đoạn này là hết sức quan trọng. Con chung lại là con trai hiếu động và anh T là người ham mê cờ bạc, lô đề; anh T đã viết giấy cho chị nhiều lần hứa hẹn từ bỏ lô đề, cờ bạc nhưng anh vẫn chứng nào tật ấy. Bản thân chị và bố m anh T đã phải trả nợ thay cho anh T nhiều lần nhưng anh không từ bỏ. Do vậy, việc giao con cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ở giai đoạn này là không phù hợp. Sau này con lớn (5 đến 10 năm tới), sự phát triển và tính cách của con đã ổn định, con mà có yêu cầu ở với anh T thì chị sẽ đồng ý.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:
* Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng thủ tục tố tụng, đảm bảo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
* Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, quan điểm và đề nghị của các bên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị với Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh T; giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm là giao con chung cho chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo bản án gửi ngày 29/3/2022 anh Hồ Minh T nằm trong hạn luật định, có nội dung và hình thức phù hợp với nội dung vụ án nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, xét xử phúc thẩm.
[2] Về Nội dung: Chị Tr và anh T là vợ chồng; do có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, quận H, thành phố Hà Nội ngày 07/01/2014 theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn; nguyên nhân là do anh T ham chơi lô đề, cờ bạc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế gia đình; bị chủ nợ đến nhà đe dọa nhiều lần nên vợ chồng mất lòng tin ở nhau dẫn đến mâu thuẫn trầm trọng, căng thẳng. Anh chị đã ly thân từ tháng 7/2021, đến nay cả 02 anh chị cùng xác định không còn tình cảm với nhau nữa, Tòa án cấp sơ thẩm đã công nhận thuận tình ly hôn cho 02 anh chị và không xét về phần tài sản chung. Anh chị không có kháng cáo về các phần này nên phần quan hệ hôn nhân và tài sản chung có hiệu lực pháp luật.
Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Hồ T D, sinh ngày 03/12/2014. Sau ly hôn, Tòa án cấp sơ thẩm giao con chung cho chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi) hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.Tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung của anh T cho chị Tr đến khi chị Tr có yêu cầu. Không đồng ý với quyết định trên của Tòa án cấp sơ thẩm, anh T đã kháng cáo mong giành quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung.
[3] Quá trình Tòa án giải quyết vụ án cả chị Tr và anh T đều có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con.
Pháp luật quy định, cha mẹ sinh ra con đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, giáo dục đối với con chưa thành niên; tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cần xem xét đầy đủ, toàn diện các mặt để con có sự phát triển về thể lực, trí lực và tâm sinh lý được tốt nhất. Tòa án đã tiến hành ghi ý kiến của cháu D; cháu D cho biết cả bố và mẹ đều yêu thương, quan tâm, chăm sóc cháu, hiện cháu ở với bố từ thứ 2 đến thứ 6, còn thứ 7 và chủ nhật cháu lại về ở với mẹ ; cháu có nguyện vọng được ở với cả bố và mẹ , hiện cháu đang học tập tại Hà Nội.
Chị Tr có chỗ ở, có công việc và thu nhập ổn định (khoảng 50.000.000 đồng/tháng), được chứng minh bằng giấy xác nhận thu nhập hàng tháng và hợp đồng thuê nhà. Anh T xuất trình hợp đồng lao động đề ngày 01/01/2022 với Công ty cổ phần Xây dựng số 2- Địa chỉ: Tổ 4 phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên; công việc là quản lý khách sạn Nậm Rốn; thu nhập khoảng 30.000.000 đồng/tháng và có nhà riêng tại Hà Nội. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm tháng 3/2022 anh Tiến không cung cấp các chứng cứ, tài liệu này.
[4] Xét kháng cáo của anh T thì thấy, chị Tr có chỗ ở và thu nhập ổn định đảm bảo điều kiện mọi mặt để nuôi con. Anh T có thời gian dài chơi cờ bạc, bị thua lỗ, thường xuyên bị các chủ nợ đến đòi, điều này ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của anh T và các thành viên trong gia đình. Nay anh lại làm việc tại Điện Biên xa Hà Nội đến vài trăm kilomet. Để đảm bảo cho sự ổn định của con chung (Cháu D đang học tập tại Hà Nội) và mong muốn của con được cả bố và mẹ chăm sóc (Cuối tuần anh T về Hà Nội) nên Tòa án cấp sơ thẩm đã giao con chung cho chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau ly hôn là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.
Do vậy, kháng cáo của anh T không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Các phần khác, không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí: Do kháng cáo của anh T không được chấp nhận nên anh phải nộp án phí Hôn nhân phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về chế độ án phí, lệ phí Tòa án.
Xử: Không chấp nhận kháng cáo về phần con chung của anh Hồ Minh T đối với Bản án sơ thẩm số 14/2022/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 3 năm 2022 của Toà án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội.
Y án sơ thẩm:
1. Về con chung: Xác nhận chị Đỗ Thị Tr và anh Hồ Minh T có 01 con chung là Hồ T D, sinh ngày 03/12/2014. Sau ly hôn, giao con chung Hồ T D cho chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi) hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.
Tạm hoãn việc đóng tiền cấp dưỡng nuôi con chung của anh T cho chị Tr đến khi chị Tr có yêu cầu hoặc đến khi có sự thay đổi khác.
Anh Tiến có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cảm trở.
2. Về án phí : Anh T phải nộp 300.000 đồng tiền án phí Hôn nhân phúc thẩm;
số tiền trên được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm mà anh đã nộp theo biên lai thu tiền số 0049999 ngày 12/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận H, thành phố Hà Nội.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án./
Bản án về ly hôn số 75/2022/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 75/2022/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về