Bản án về ly hôn số 54/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 54/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 09 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 122/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn D, sinh năm 1958; Nơi cư trú: ấp T, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

- Bị đơn: Bà Võ Thị Huỳnh M1, sinh năm 1964; Nơi cư trú: ấp P1, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Phạm Văn D trình bày:

Ông và bà Võ Thị Huỳnh M1 chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1995 đến năm 2012, không có tổ chức lễ cưới, không có đăng ký kết hôn. Ông và bà M1 sinh được 03 người con chung.

Thời gian đầu chung sống với nhau, ông và bà M1 sống tại ấp P1, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre. Đến khi sinh con đầu tiên ông và bà M1 về sống tại ấp T, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Trong thời gian chung sống, ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng cự cãi, bất đồng quan điểm nên từ năm 2012 bà M1 đã sống riêng. Từ đó đến nay ông bà không có gặp gỡ để bàn bạc, hàn gắn đoàn tụ.

Nay ông xác định không còn tình cảm vợ chồng, không thể tiếp tục mối quan hệ hôn nhân với bà M1 được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà M1.

Về con chung: Ông và bà M1 có ba người con chung là Phạm Thị Ngọc T1, sinh ngày 28/02/1997; Phạm Đình K, sinh ngày 04/3/2001; Phạm Đình K1, sinh ngày 16/3/2003. Các con chung đều đã thành niên, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Võ Thị Huỳnh M1 trình bày trong quá trình tố tụng tại bản tự khai và biên bản hòa giải như sau:

Bà và ông Phạm Văn D do quen biết rồi chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1995, ông bà không có tổ chức lễ cưới và cũng không đi đăng ký kết hôn. Bà và ông D sinh được 03 người con chung. Mặc dù bà và ông D không đăng ký kết hôn nhưng việc bà và ông D chung sống gia đình hai bên, bà con lối xóm đều biết, không ai ngăn cản hay phản đối.

Khi về sống chung, thời gian đầu bà và ông D ở tại ấp P1, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre. Năm 1997, bà sinh người con đầu tiên, ông bà về sinh sống tại ấp T, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre. Đến năm 2012, bà và ông D chia tay. Nguyên nhân là do giữa vợ chồng không còn tiếng nói chung, thường xuyên bất hòa từ những chuyện nhỏ nhặt rồi dẫn đến tình cảm rạn nứt. Từ đó đến nay, bà và ông D không còn chung sống với nhau nữa. Nay ông D xin ly hôn thì bà đồng ý.

Về con chung: Bà và ông D có ba người con chung như ông D trình bày là đúng. Các con chung đã thành niên, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn ông Phạm Văn D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn bà Võ Thị Huỳnh M1 nên xác định quan hệ pháp luật của vụ án là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông D có quyền khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình, Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bà M1 có nơi cư trú tại ấp P1, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre. Căn cứ vào quan hệ pháp luật của vụ án và nơi cư trú của bị đơn xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Ông D và bà M1 đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông D và bà M1.

[4] Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn ông Phạm Văn D, Hội đồng xét xử nhận định: Ông D và bà M1 có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, ông bà tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1995 nhưng không đăng ký kết hôn và cho đến hiện tại ông bà cũng chưa đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống, giữa ông D và bà M1 phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Đến năm 2012, ông D và bà M1 chia tay. Từ đó đến nay, ông D và bà M1 không gặp gỡ, bàn bạc để hàn gắn đoàn tụ. Nay do không còn tình cảm vợ chồng, không chung sống với nhau nữa và để thuận tiện trong cuốc sống riêng của mỗi người nên ông D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà M1. Bà M1 cũng đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy, tại khoản 1 Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình có quy định “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng….” và tại khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình cũng nêu rõ “ Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; …” Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông D được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, cần tuyên bố không công nhận mối quan hệ vợ chồng của ông D và bà M1 mới phù hợp với các quy định đã được viện dẫn ở trên.

[5] Xét về con chung, Hội đồng xét xử nhận định: Ông D và bà M1 có ba người con chung là: Phạm Thị Ngọc T1, sinh ngày 28/02/1997; Phạm Đình K, sinh ngày 04/3/2001; Phạm Đình K1, sinh ngày 16/3/2003. Cả ba người con chung đều đã thành niên, ông D và bà M1 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Ông D và bà M1 đều trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[7] Về án phí: Nguyên đơn ông Phạm Văn D có nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn nhưng do ông thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn nộp án phí nên ông được miễn nộp toàn bộ theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng D sự, Điều 12, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 12, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn D. Cụ thể:

Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Phạm Văn D và bà Võ Thị Huỳnh M1.

Về con chung: Ông D và bà M1 có ba người con chung là: Phạm Thị Ngọc Tuyền, sinh ngày 28/02/1997; Phạm Đình Khang, sinh ngày 04/3/2001; Phạm Đình Khánh, sinh ngày 16/3/2003. Cả ba người con chung đều đã thành niên, ông D và bà M1 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về tài sản chung: Ông D và bà M1 đều trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Ông D và bà M1 đều trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Ông D có nghĩa vụ chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được miễn nộp toàn bộ.

Hoàn trả cho ông Phạm Văn D số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005802 ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Chi cục thi hành án D sự huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 54/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:54/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về