Bản án về ly hôn số 53/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 53/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2021 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Xuân D, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Ban Chỉ huy quân sự huyện H – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh T (Tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa).

- Bị đơn: Chị Lê Thị P, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Số nhà 61B, đường Lê Thánh T, phường Đông V, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt anh D, chị P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Phạm Xuân Diệu trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị P kết hôn với nhau năm 2014, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông V, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại số nhà 61B, đường Lê Thánh T, phường Đông V, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa đến tháng 11/2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng lẫn nhau, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng anh đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn căng thẳng nhất từ tháng 03/2021, vợ chồng anh đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Nay anh D xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị P.

Về con chung: Vợ chồng anh không có con chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị P đến Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị Phương không có mặt tại Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp.

Tại phiên tòa, anh D giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; chị P trình bày: Chị thống nhất với trình bày của anh D về thời gian, điều kiện kết hôn của chị và anh D. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống hạnh phúc tại số nhà 61B, đường Lê Thánh T, phường Đông V, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Trong cuộc sống vợ chồng chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016 nhưng không trầm trọng như anh D trình bày. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chị là do anh D có biểu hiện quan hệ không trong sáng với một số phụ nữ khác, sau khi được chị phân tích và tha thứ thì anh D cũng có thay đổi nhưng không hiểu vì lý do gì từ giữa tháng 3/2021, anh D đã bỏ nhà đi từ đó cho đến nay, chị không liên lạc được với anh D.

Nay anh D làm đơn khởi kiện ly hôn, chị xét thấy tình cảm của chị với anh D vẫn đang còn nên chị không đồng ý ly hôn. Về con chung: Chị và anh D không có con chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về phần tài sản, công nợ chung: chị yêu cầu anh D trả cho chị 30.000.000 đồng tiền gốc anh D đã vay của chị và trả lãi đối với số tiền này tính từ năm 2017 cho đến nay và yêu cầu anh D trả lại cho chị chiếc xe máy biển kiểm soát 36K7 – 6504. Tại phần tranh luận chị Phương rút phần yêu cầu về phần tài sản, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản và công nợ chung của chị và anh D.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã tuân thủ thủ đúng quy định của pháp luật, bị đơn không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập và thông báo của Tòa án là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh D; Về con chung: Anh D và chị P không có con chung, anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung; Về phần tài sản, công nợ chung: anh D, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thanh Hóa, việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh D và chị P kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Anh D trình bày: quá trình chung sống, vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng lẫn nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Chị P cho rằng cuộc sống vợ chồng chị có phát sinh mâu thuẫn nhưng chưa đến mức trầm trọng như anh D trình bày, nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị do anh D có biểu hiện quan hệ không trong sáng với một số phụ nữ khác. Anh D không thừa nhận việc anh có quan hệ với người phụ nữ khác. Tuy nhiên đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn của vợ chồng anh chị. Anh D và chị P khai không thống với nhau về thời điểm phát sinh mâu thuẫn và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, nhưng anh chị đã sống ly thân nhau từ giữa tháng 3/2021 cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Nay anh D xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh và chị P không còn, tại phiên tòa anh tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị P. Chị P không đồng ý ly hôn và có nguyện vọng vợ chồng quay về đoàn tụ. Thu thập chứng cứ tại địa phương phản ánh: quá trình anh D và chị P sinh sống tại địa phương vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị thì địa phương không nắm được nhưng hiện nay anh D không còn sinh sống tại địa phương. Như vậy có thể khẳng định tình cảm vợ chồng và đời sống chung giữa anh D và chị P không còn, quan hệ hôn nhân chỉ là hình thức, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng có quay về đoàn tụ thì cuộc sống cũng không hạnh phúc. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh D là phù hợp với thực trạng diễn biến quan hệ hôn nhân giữa anh D, chị P và phù hợp với pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[3]. Về con chung: Anh D và chị P không có con chung nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

[4]. Về tài sản, công nợ chung: Anh D, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5]. Về án phí: Anh D phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho anh Phạm Xuân D được ly hôn chị Lê Thị P.

Về con chung: Anh D và chị P không có con chung nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Anh D, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về ỏn phớ: Anh Phạm Xuân D phải chịu 300.000đ án phí  ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ anh đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001538 ngày 20/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (anh D đó nộp đủ ỏn phớ).

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 53/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:53/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về