Bản án về ly hôn số 43/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 260/2021/HNGĐ-ST, ngày 07/10/2021 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 07/02/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn 4, xã S, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

* Bị đơn: Anh Chu Văn T2, sinh năm 1980 Địa chỉ: Tổ 5, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang Chị Trần Thị T và anh Chu Văn T2 đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Chị và anh Chu Văn T2 có thời gian tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Y, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 18/12/2002. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình anh T2 tại tổ 5, phường H, thành phố T. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận hạnh phúc. Đến cuối năm 2009 vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xảy ra mâu thuẫn, chị và anh T2 đã sống ly thân từ năm 2010 đến nay không còn quan tâm đến nhau nữa, chị T chuyển về ở với bố mẹ đẻ tại thôn 4, xã S, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Chị T xác định vợ chồng ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Chu Văn T2.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh Chu Văn T2 có 02 con chung tên là Chu Văn Q, sinh ngày 03/3/2003 và Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006. Hiện nay 02 con chung đang ở với anh T2. Chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho anh T2 được quyền nuôi con Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006 sau khi vợ chồng ly hôn vì hiện nay cháu D đang học tập và ở cùng anh T2, chị đề nghị không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị không có việc làm và chỗ ở ổn định. Đối với cháu Chu Văn Q, sinh ngày 03/3/2003, hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị T xác nhận chị và anh T2 không có tài sản chung và không vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Chu Văn T2 trình bày:

Anh và chị Trần Thị T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Y, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 18/12/2002 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình anh tại tổ 5, phường H, thành phố T. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận hạnh phúc. Sau thời gian chị T sinh con thứ hai thì tự bỏ đi, anh không rõ lý do, từ đó anh cũng không liên lạc với chị T nữa, thỉnh thoảng chị T có về qua nhà thăm con. Anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Trần Thị T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Chu Văn Q, sinh ngày 03/3/2003 và Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006. Cháu Chu Văn Q, hiện nay đã trưởng thành nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu Chu Thùy D, hiện nay ở cùng anh, từ ngày chị T bỏ đi 02 con chung ở với anh nên anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu D và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Vợ chồng anh chị không có tài sản chung và không vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã gửi thông báo về việc vụ thụ lý vụ án, thông báo hoà giải và đối chiếu chứng cứ cho anh Chu Văn T2 nhưng anh T2 đều vắng mặt và xin giải quyết vắng mặt, do vậy Tòa án không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ để ra giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Kết quả thu thập chứng cứ thể hiện: Chị Trần Thị T và anh Chu Văn T2 là vợ chồng, có đăng ký kết hôn năm 2002. Anh T2 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 5, phường H, thành phố Tuyên Quang. Trước đây chị T và anh T2 sống cùng gia đình nhà anh T2 tại tổ 5, phường H; hiện nay chị T bỏ đi không cùng anh T2 nữa, anh T2 không nói về việc chị T đi đâu, làm gì. Nay chị T xin ly hôn anh T2, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vợ chồng anh chị có 02 con chung là Chu Văn Q, sinh ngày 03/3/2003 và Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006, hiện nay 02 cháu đang ở với anh T2 và bố mẹ anh T2 tại tổ 5, phường H, thành phố Tuyên Quang. Chị T và anh T2 không có tài sản chung, không có vay nợ chung.

Tại phiên tòa, chị Trần Thị T có đơn xin vắng mặt, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến như đã trình bày, chị đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn với anh Chu Văn T2; chị đề nghị Tòa án giải quyết giao con chung là Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006 cho anh T2 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau ly hôn và không phải cấp dưỡng nuôi con chung; cháu Chu Văn Q, sinh ngày 03/3/2003 hiện nay đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với anh Chu Văn T2 đến tham gia tố tụng nhưng anh T2 vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Từ khi thụ lý đơn và trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, trình tự tại phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T về việc xin ly hôn anh Chu Văn T2.

Về con chung: Giao cháu Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006 cho anh Chu Văn T2 chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Trần Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do anh T2 không yêu cầu). Chị T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị Trần Thị T xác nhận chị và anh Chu Văn T2 không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Trần Thị T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn. Ngày 07/10/2022, Toà án thụ lý vụ án và gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Chu Văn T2 bằng hình thức gửi bảo đảm qua đường bưu điện và tống đạt trực tiếp nhưng anh T2 không đến Toà án giải quyết vụ việc, tại các buổi hòa giải anh T2 vẫn vắng mặt và anh T2 có ý kiến về việc xin được vắng mặt trong các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Chu Văn T2.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Chu Văn T2 kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Y, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 18/12/2002. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T2 là hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị T và anh T2 sinh sống tại tổ 5, phường H, thành phố T cùng với gia đình anh T2. Từ đầu năm 2010, chị T và anh T2 đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh T2 đã trầm trọng, mục đích hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, bền vững đã không thể đạt được. Vì vậy, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T xin ly hôn anh Chu Văn T2.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị T và anh Chu Văn T2 có 02 con chung là là Chu Văn Q, sinh ngày 03/3/2003 và Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006, hiện nay 02 cháu đang ở với anh T2 và bố mẹ anh T2 tại tổ 5, phường H, thành phố Tuyên Quang. Cháu Q đã trưởng thành nên chị T và anh T2 đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, cháu D hiện đang học lớp 10 trường trung học phổ thông Ỷ La, thành phố Tuyên Quang, xét nguyện vọng của cháu D, anh T2 và chị T đều đề nghị, sau khi chị T và anh T2 ly hôn, anh T2 là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu D là phù hợp nên cần chấp nhận. Anh T2 không yêu cầu chị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung (đối với cháu D) nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Trần Thị T và anh Chu Văn T2 xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo:

Chị Trần Thị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Chu Văn T2 không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Các Điều 28; 147; khoản 2 Điều 227; 228; 266; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Các Điều 51; 56; 58; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T về việc xin ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Chu Văn T2.

2. Về con chung: Giao cháu Chu Thùy D, sinh ngày 11/3/2006 cho anh Chu Văn T2 trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Trần Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do anh T2 không yêu cầu). Chị T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị Trần Thị T và anh Chu Văn T2 không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị T phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000066 ngày 07/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Chị T đã nộp đủ án phí. Anh Chu Văn T2 không phải chịu án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị T và anh Chu Văn T2 có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 43/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về