Bản án về ly hôn số 40/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK

BN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 11 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 240/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2021 về việc “Kiện ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 15/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2021/QĐST – HNGĐ ngày 04/11/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Kim S; sinh năm 1997 (có mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng T; sinh năm 1990 (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Thôn T P, xã QT, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai nguyên đơn chị Phan Thị Kim S trình bày:

Tôi và anh Nguyễn Trọng T có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 18/7/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Tiến, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh T thường xuyên uống rượu không lo làm ăn, đi uống rượu về còn đánh tôi. Mặc dù gia đình anh em đã nhiều lần khuyên ngăn để đảm bảo hạnh phúc gia đình nhưng anh T vẫn không thay đổi dẫn đến gia đình thường xuyên mâu thuẫn. Năm 2019 tôi đã gửi đơn ra tòa án để giải quyết ly hôn nhưng chúng tôi đã hòa giải được để cho anh T cơ hội về chung sống với nhau. Khi về chung sống với nhau được một thời gian anh T vẫn không thay đổi, không lo làm ăn và tiếp tục đánh tôi, vì con nên tôi nhịn nhiều lần để nuôi con, nay tôi không thể chịu đựng được nữa nên tôi làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar giải quyết cho được ly hôn với anh Nguyễn Trọng T.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là cháu Nguyễn Phan Trà M, sinh ngày 14/11/2017. Hiện nay tôi đang trực tiếp nuôi dưỡng nên tôi có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cháu M cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Nguyễn Trọng Tĩnh phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đã triệu tập anh Nguyễn Trọng T để giao thông báo thụ lý vụ án, làm bản tự khai, thông báo về phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Nguyễn Trọng T vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác minh tại chính quyền địa phương vào ngày 06/8/2021 được biết anh Nguyễn Trọng T có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng anh Nguyễn Trọng T thường xuyên vắng mặt ở nhà vào giờ làm việc hành chính.

Ti phiên tòa, chị Phan Thị Kim S vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án:

- Đối với Thẩm Phán: đã thực đầy đủ các quy đinh của Bộ luật tố tụng dân sự và thực hiện đúng thời hạn xét xử.

- Đối với Hội đồng xét xử và thư ký tại phiên tòa: đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự:

Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không chấp hành theo đúng quy định của pháp luật tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Kim S; Tuyên bố chị Phan Thị Kim S được ly hôn với anh Nguyễn Trọng T. Giao cháu Nguyễn Phan Trà M, sinh ngày 14/11/2017 cho chị Phan Thị Kim S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Trọng T không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phan Thị Kim S không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật:

Chị Phan Thị Kim S và anh Nguyễn Trọng T có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 18/7/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Tiến, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk.

Nay chị Phan Thị Kim S yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Trọng T nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp ly hôn và nuôi con chung.

Anh Nguyễn Trọng T có hộ khẩu thường trú tại thôn TP, xã QT, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Cư Mgar nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng anh Nguyễn Trọng T vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Kim S và anh Nguyễn Trọng T có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 18/7/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Tiến, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống giữa chị Phan Thị Kim S và anh Nguyễn Trọng T thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, đời sống chung không hạnh phúc, anh T thường xuyên say xỉn, đánh đập vợ con và hiện nay đã sống ly thân. Nay chị Phan Thị Kim S yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Trọng T, xét yêu cầu của chị Phan Thị Kim S là phù hợp vì hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Phan Thị Kim S.

Như vậy có thể thấy, hôn nhân giữa chị Phan Thị Kim S và anh Nguyễn Trọng T đã trầm trọng, việc chị Phan Thị Kim S yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Trọng T là chính đáng cần được chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Chị Phan Thị Kim S và anh Nguyễn Trọng T có 01 con chung là cháu Nguyễn Phan Trà M, sinh ngày 14/11/2017, hiện nay cháu M đang được chị Phan Thị Kim S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định và chị Phan Thị Kim S cũng có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cháu Nguyễn Phan Trà M cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy xét nguyện vọng của chị Phan Thị Kim S là chính đáng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện nay nên giao cháu Nguyễn Phan Trà M, sinh ngày 14/11/2017 cho chị Phan Thị Kim S tiếp tục để chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu My đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phan Thị Kim S không yêu cầu anh Nguyễn Trọng T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phan Thị Kim S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Phan Thị Kim S phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng vào các Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Kim S

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Kim S được ly hôn với anh Nguyễn Trọng T Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Nguyễn Phan Trà M, sinh ngày 14/11/2017 cho chị Phan Thị Kim S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phan Thị Kim S không yêu cầu anh Nguyễn Trọng T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Anh Nguyễn Trọng T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phan Thị Kim S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình:

Chị Phan Thị Kim S phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà chị Phan Thị Kim S đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001246 ngày 06/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 40/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về