Bản án về ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 04 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 235/2021/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 về “Ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 04 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1980 - Có mặt; Địa chỉ: Ấp PT, xã PC, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: Anh Phan Hữu C, sinh năm 1965 - Xin vắng mặt. Địa chỉ: Ấp PT, xã PC, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc L trình bày:

Chị và anh C tự chung sống với nhau vào năm 1991,không tổ chức lễ cưới, không đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống, chị về sống chung bên gia đình anh C tại ấp PT, xã PC, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Chị và anh C chung sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau nên thường xuyên gây gổ và ly thân đến nay. Anh C sanh tâm ghen tuông, nghi ngờ vô cớ và kiếm chuyện gây sự đánh đập chị. Chị và anh C không ai có thiện chí hàn gắn và đặt vấn đề đoàn tụ.

Nay chị yêu cầu được ly hôn anh C.

Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên: Phan Tấn Đ, sinh ngày 19-09-1991, hiện đã trưởng thành, có gia đình riêng nên không yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Phan Hữu C trình bày (Theo biên bản lấy lời khai ngày 14-02-2022):

Anh C trình bày thống nhất với chị L về thời gian chung sống, không có đăng ký kết hôn. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo anh C là do chị L thường xuyên nhắn tin điện thoại với người đàn ông khác, anh khuyên nhiều lần nhưng chị L không nghe nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và ly thân từ tháng 01 năm 2021 đến nay không ai đặt vấn đề đoàn tụ.

Nay anh C cũng đồng ý ly hôn với chị L.

Về con chung: Cháu Phan Tấn Đ, sinh ngày 19-09-1991, hiện đã trưởng thành, có gia đình riêng nên không yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 14, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét quyết định:

Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Ngọc L và anh Phan Hữu C.

Về con chung: Cháu Phan Tấn Đ, sinh ngày 19-09-1991, đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Phan Hữu C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh C tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1991 nhưng không có đăng ký kết hôn. Thời điểm chị L chung sống anh C đã trên 18 tuổi, thực tế chị L sinh năm 1972 nhưng do chuyển hộ khẩu nên nhập nhầm năm sinh 1980. Việc nhầm lẫn này đã được Ủy ban nhân dân xã Phước Chỉ xác nhận chị Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1972 và Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1980 là một người. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nay chị L yêu cầu ly hôn và anh C cũng đồng ý ly hôn. Tòa án đã tiến hành xác minh Ủy ban nhân dân xã Phước Chỉ nơi chị L, anh C chung sống, kết quả thể hiện chị L và anh C không có đăng ký kết hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 14, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị L và anh C.

[3] Về con chung: Chị L và anh C đều trình bày có 01 con chung là cháu Phan Tấn Đ, sinh ngày 19-09-1991. Hiện cháu Đ đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Điều 14, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Ngọc L và anh Phan Hữu C.

2. Về con chung: cháu Phan Tấn Đ, sinh ngày 19-09-1991, đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0026355 ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; chị L đã nộp đủ án phí.

5. Báo cho chị L biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về