Bản án về ly hôn số 22/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 320/2020/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXX- HNGĐ ngày 25/3/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1997 Địa chỉ: Thôn ĐT, xã ĐT, huyện Phú Bình, Thái Nguyên (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Diêm Đăng N, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn HG, xã HL, Hiệp Hòa, Bắc Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ghi ngày 08/10/2020, Bản tự khai ngày 25/11/2020, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị và anh Điêm Đăng N kết hôn với nhau ngày 17/6/2016 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoàng Lương, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Sau ngày cưới anh chị đoàn tụ ngay, vợ chồng chung sống hòa thuận đến tháng 5/2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong việc nuôi dạy con, về kinh tế và bạo lực gia đình. Vì vậy, từ tháng 5/2020 chị về nhà mẹ đẻ và chấm dứt quan hệ tình cảm với anh N. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu được ly hôn anh N.

Tại Bản tự khai ngày 28/11/2020, bị đơn là anh Diêm Đăng N thừa nhận thời gian và điều kiện kết hôn như chị T trình bày. Vợ chồng anh chị xảy ra mâu thuẫn là do bất đồng trong việc chi tiêu sinh hoạt gia đình, sau đó chị T lấy cớ đem con về nhà mẹ đẻvà chấm dứt quan hệ vợ chồng với anh. Nay anh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn.

Về con chung: Cả hai anh chị đều trình bày, vợ chồng anh chị hiện có 2 con chung là Diêm Đăng G, sinh ngày 10/9/2017 và Diêm Nguyễn Phương V, sinh ngày 26/12/2020, hiện cả 2 con đang ở với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu nuôi cả hai con chung, còn anh N yêu cầu nuôi con Diêm Đăng G. Cấp dưỡng nuôi con anh chị đều không yêu cầu.

Về tài sản, công sức, công nợ: Cả hai anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T giữ nguyên yêu cầu ly hôn anh N và yêu cầu được nuôi cả hai con chung. Bị đơn là anh Diêm Đăng N cũng giữ nguyên ý kiến đã trình bày, nhất trí ly hôn và yêu cầu nuôi con Diêm Đăng G.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiêp Hoà tham gia phiên toà nhận xét quá trình tiến hành tố tụng, xét xử vụ án, Toà án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự có ý thức chấp hành pháp lụât. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 18, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Diêm Đăng N.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi con chung Diêm Nguyễn Phương V, sinh ngày 26/12/2020; giao cho anh Diêm Đăng N nuôi con chung Diêm Đăng G, sinh ngày 10/9/2017. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra do các đương sự không yêu cầu.

- Án phí: Chị T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Diêm Đăng N kết hôn với nhau ngày 17/6/2016 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, mặc dù đã có thời gian khoảng 4 năm chung sống hòa thuận, đã có 1 con chung và chị T đang mang thai con chung thứ hai nhưng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày dẫn đến vợ chồng xô sát, thậm chí đánh đập nhau. Từ tháng 5/2020, chị T về nhà mẹ đẻ và chấm dứt quan hệ tình cảm với anh N. Cho đến nay, thời gian anh chị sống ly thân nhau đã lâu nhưng đôi bên không có biện pháp tích cực nào để cải thiện tình cảm vợ chồng, hiện cả hai anh chị đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, đều không có nguyện vọng đoàn tụ . Vì vậy, xét mâu thuẫn vợ chồng giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng quy định tại các Điều 55, 56 Luật hôn nhân và gia đình để công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh chị.

[2]. Về con chung: Anh chị có 2 con chung là Diêm Đăng G, sinh ngày 10/9/2017 và Diêm Nguyễn Phương Vy, sinh ngày 26/12/2020, hiện đang ở với chị T. Mặc dù chị T yêu cầu nuôi cả hai con chung nhưng xét thấy việc tiếp tục để chị T nuôi cả hai con sẽ không đảm bảo về mọi mặt, mặt khác, anh N cũng có đủ điều kiện để nuôi con và anh N có yêu cầu được nuôi 1 con chung, vì vậy, cần giao cho anh chị mỗi người nuôi 1 con chung, cụ thể là giao cho chị T nuôi con chung Diêm Nguyễn Phương Vy, sinh ngày 26/12/2020; giao cho anh N nuôi con chung Diêm Đăng G, sinh ngày 10/9/2017 là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Anh, chị không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết cho đến khi các đương sự có yêu cầu.

[3]. Về tài sản, công sức, công nợ: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4]. Về án phí: Chị T không thuộc trường hợp được miễn nộp án phí và thỏa thuận nộp cả án phí ly hôn nên chị T phải nộp toàn bộ tiền án phí ly hôn theo quy định, nhưng được khấu trừ vào số tiền chị T đã nộp tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 55, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 18, 27 Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Diêm Đăng N.

2/ Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi con chung Diêm Nguyễn Phương V, sinh ngày 26/12/2020; giao cho anh N nuôi con chung Diêm Đăng G, sinh ngày 10/9/2017. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết cho đến khi các đương sự có yêu cầu.

3/ Án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền chị T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0000460 ngày 23/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa (xác nhận chị T đã nộp đủ tiền án phí).

Báo cho đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 22/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về