Bản án về ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2022/TLST - HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 về việc Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2022/QĐST - DS ngày 18 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Bích Đ, sinh năm 1979.

HKTT: Xóm PĐ, xã TK, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Chỗ ở hiện nay: Khu 5, xã GL, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Duy H, sinh năm 1983.

HKTT: Xóm PĐ, xã TK, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Chị Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 31/12/2021, bản tự khai ngày 10/3/2022 và biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án nguyên đơn chị Trần Thị Bích Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Bích Đ kết hôn với anh Nguyễn Duy H năm 2017, hai bên được tìm hiểu tự nguyện và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh H tại xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn. Thời gian đầu kết hôn vợ chồng hòa thuận. Đến năm 2018 mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân chính là do vợ chồng không hợp nhau trong cách sống, trong làm ăn kinh tế dẫn đến cãi nhau, anh H không quan tâm, chăm lo đến gia đình, vợ chồng không tin tưởng vào tình cảm của nhau. Mặt khác vợ chồng không có con chung nên mâu thuẫn càng gay gắt. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra thì bố mẹ hai bên gia đình có biết, có khuyên bảo nhưng không tự khắc phục được. Chị Đ, anh H sống ly thân từ khoảng năm 2018 đến nay không ai còn quan tâm đến nhau. Khi làm đơn ly hôn chị cũng có gọi điện thoại, thông tin cho anh H biết để thu xếp công việc về giải quyết ly hôn, nhưng anh bảo đi làm ăn bận không về được. Nay chị Đ xác định tình cảm với anh H không còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để được tự do, ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị Trần Thị Bích Đ khẳng định vợ chồng không có con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Trần Thị Bích Đ trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn anh Nguyễn Duy H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị Đ với anh H, lấy lời khai của bố đẻ anh H. Theo kết quả xác minh ngày 18/4/2022 tại Ban Công an xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn xác định anh H có hộ khẩu thường trú tại xóm Phú Đặng, xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tại biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Thanh Hảo là bố đẻ anh H ngày 18/4/2022 cũng xác định như sau: Tháng 3 năm 2017 con trai ông là anh H kết hôn với chị Trần Thị Bích Đ, đăng ký kết hôn tại UBND xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng anh H, chị Đ chung sống với gia đình nhà ông tại xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn, thời gian đầu kết hôn tình cảm vợ chồng hạnh phúc. Trong cuộc sống chung vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong cách ăn ở đối xử với nhau hàng ngày không được tình cảm, không ai chịu nhường nhịn nhau, từ đó dẫn đến cãi nhau, không tôn trọng nhau. Mặt khác vợ chồng anh H, chị Đ kết hôn đã lâu nhưng không có con chung với nhau, nên tình cảm không được êm ấm. Khi mâu thuẫn xẩy ra bố mẹ hai bên nội ngoại có khuyên bảo vợ chồng bỏ qua mâu thuẫn về để đoàn tụ gia đình nhưng không mang lại kết quả gì. Khi chị Đ bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn thì gia đình cũng có bảo chị Đ về nhưng chị cương quyết không về chung sống với anh H nữa. Anh H và chị Đ không chung sống với nhau từ năm 2018 đến nay. Quan điểm của gia đình: Thực tế vợ chồng anh H, chị Đ không có hạnh phúc, ông Hảo đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Ông Hảo xác định vợ chồng anh H, chị Đ không có con chung. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp, tư trang riêng: Theo ông Hảo thì vợ chồng anh H, chị Đ chung sống với nhau một thời gian thì ly thân nên không tạo lập được tài sản chung, nợ nần và công sức đóng góp, tư trang riêng cũng không có. Anh H đi làm ăn không có ở nhà, anh chỉ nói với ông là đi làm còn làm công việc gì, địa chỉ ăn ở cụ thể thế nào ông không biết, anh H thỉnh thoảng có về nhà chơi, khi không về được anh thường xuyên gọi điện về hỏi thăm sức khỏe, công việc nhà. Ông có nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác của Tòa án, ông có gọi điện trực tiếp thông báo đến anh H hoặc khi anh về nhà thì ông cũng đưa lại các giấy tờ cho anh nói về việc Tòa án báo gọi để giải quyết ly hôn với chị Đ, anh H có nói với ông: Việc ly hôn chị Đ cũng đã nói chuyện, thông báo cho anh được biết, thực tế vợ chồng không còn ở cùng nhau, con cái không có, mỗi người một cuộc sống riêng không có gì giàng buộc với nhau nên anh đồng ý ly hôn để giải phóng cho nhau. Về nợ chung và các vấn đề khác thì vợ chồng cưới nhau xong về ở chung, đi làm thuê xong mâu thuẫn thì sống ly thân nên chưa tạo lập được tài sản chung gì, công sức đóng góp, tư trang riêng không có. Anh H đi làm công việc bận không xin nghỉ được, anh không về Tòa án để giải quyết ly hôn với chị Đ được, anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 09/5/2022. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Bích Đ, xử cho chị Đ được ly hôn anh Nguyễn Duy H. Về con chung: Không có. Các vấn đề khác đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Chị Đ phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 11/02/2022 chị Trần Thị Bích Đ nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn với anh Nguyễn Duy H, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Trần Thị Bích Đ có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 09/5/2022, anh Nguyễn Duy H được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã có công văn gửi đến Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an để xác định anh H có xuất cảnh ra nước ngoài không, tuy nhiên phía Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an cung cấp thông tin là anh H hiện tại không làm thủ tục xuất cảnh ra nước ngoài. Anh H không đến Tòa án làm việc nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Đ, anh H là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Bích Đ và anh Nguyễn Duy H đăng ký kết hôn tháng 3 năm 2017 tại UBND xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng ở chung với gia đình anh H tại xã Thạch Khoán, tình cảm vợ chồng bước đầu hòa thuận, hạnh phúc. Đến khoảng năm 2018 vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong kinh tế gia đình, vợ chồng không tin tưởng, tôn trọng nhau từ đó lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, vợ chồng không có con chung nên cũng không có sự gắn kết tình cảm, chị Đ đã về sinh sống với bố mẹ đẻ của chị ở xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ từ khoảng năm 2018, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không ai còn quan tâm đến nhau, nội dung này đã được nguyên đơn trình bày tại bản tự khai. Anh H không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm trình bày gì về việc ly hôn. Kết quả thu thập chứng cứ lấy lời khai của bố đẻ anh H, xác minh về tình trạng hôn nhân tại khu hành chính xóm Phú Đặng, xã Thạch Khoán, huyện Thanh Sơn cũng xác định vợ chồng anh H, chị Đ có mâu thuẫn dẫn đến cãi nhau, cuộc sống chung không có hạnh phúc, thực tế anh chị đã không còn chung sống với nhau một thời gian dài. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình trạng hôn nhân giữa chị Đ và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị Đ xin ly hôn với anh H là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình 2014

[3] Về con chung: Chị Trần Thị Bích Đ và anh Nguyễn Duy H không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Trần Thị Bích Đ xác định vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì. Anh Nguyễn Duy H không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về các vấn đề trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Trần Thị Bích Đ phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Bích Đ đối với anh Nguyễn Duy H. Xử cho chị Trần Thị Bích Đ được ly hôn anh Nguyễn Duy H.

2. Về án phí: Chị Trần Thị Bích Đ phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị Đ đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0006711 ngày 14/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về