Bản án về ly hôn số 181/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 181/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 28 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 142/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2021 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 275/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 296/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20/10/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Bùi Quang B; sinh năm 1974; nơi cư trú: Thôn Nãi S, xã Tú S, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đỗ Thị X; sinh năm 1978; nơi ĐKHKTT: Thôn Nãi S, xã Tú S, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện tại: Đài Loan (Trung Quốc); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn xin ly hôn nộp ngày 10/8/2021 và bản tự khai, nguyên đơn anh Bùi Quang B trình bày:

Anh và chị Đỗ Thị X kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tú S, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996. Anh và chị X sống vui vẻ, hạnh phúc được khoảng mấy năm đầu, đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính cách không hợp nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Đầu năm 2014, chị X sang Đài Loan lao động thì cũng kể từ đó cho đến nay anh chị sống ly thân, vợ chồng không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Xét thấy cuộc sống vợ chồng không còn như trước, tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được xin ly hôn với chị Đỗ Thị X.

Về con chung: Anh và chị X có 02 con chung là Bùi Thị L, sinh năm 1998 và Bùi Quang H, sinh năm 2001. Cháu Luyến đã đủ 18 tuổi, cháu H đã chết nên về con chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với chị Đỗ Thị X: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo cho gia đình chị X cung cấp địa chỉ của chị X ở Đài Loan (Trung Quốc) và yêu cầu gia đình chị thông báo cho chị biết để gửi lời khai và cung cấp tài liệu, chứng cứ về Tòa án. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng ở nơi cư trú cuối cùng của chị X, tống đạt các văn bản tố tụng cho chị X thông qua gia đình chị, gia đình chị X cũng đã thông báo cho chị X biết. Tuy nhiên, gia đình chị X vẫn không thực hiện yêu cầu cung cấp địa chỉ của chị X. Gia đình chị X cung cấp: Chị X vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại nhưng gia đình không biết địa chỉ cụ thể của chị X ở Đài Loan. Chị X đã được gia đình thông báo về việc anh B có đơn ly hôn với chị nhưng do dịch Covid nên chị không thể về Việt Nam giải quyết vụ án được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, anh B và chị X đều vắng mặt. Anh B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị X vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai.

Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và ngh a vụ. Bị đơn Đỗ Thị X vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Anh B và chị X xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng ngày 10 tháng 12 năm 1996. Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh B. Về con chung: Anh chị có 02 con chung, cháu Bùi Thị L, sinh năm 1998 đã đủ 18 tuổi và cháu Bùi Quang H, sinh năm 2001 đã chết; vì vậy, anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng không xem xét. Về tài sản chung: Anh B không yêu cầu nên không giải quyết, nên hội đồng xét xử không xem xét. Anh Bùi Quang B phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Anh Bùi Quang B và chị Đỗ Thị X kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã Tú S, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, theo quy định tại Điều 9, Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đây là hôn nhân hợp pháp. Bị đơn chị Đỗ Thị X hiện đang sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc), nguyên đơn anh Bùi Quang B sinh sống tại Hải Phòng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Bùi Quang B đã nhận tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, chị X đã được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt. Theo gia đình cung cấp, chị Đỗ Thị X hiện đang sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc), chị X và gia đình không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị X; gia đình chị X xác nhận chị vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, gia đình cũng đã thông báo cho chị biết việc anh B khởi kiện về ly hôn với chị X tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho chị Đỗ Thị X thông qua gia đình chị, gia đình chị cũng đã cam kết thông báo cho chị các văn bản tố tụng của Tòa án, trường hợp này được coi là bị đơn cố tình giấu địa chỉ. Vì vậy căn cứ hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Quang B và chị Đỗ Thị X.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, anh B và chị X kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tú S, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng có hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cách sống không hòa hợp dẫn đến cãi vã. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng từ năm 2014, chị X sang Đài Loan lao động, từ đó vợ chồng xa cách và không còn quan tâm đến nhau nữa, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh B và chị X đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của anh Bùi Quang B.

[4] Về con chung: Anh B và chị X có 02 con chung là Bùi Thị L, sinh năm 1998 và Bùi Quang H, sinh năm 2001. Cháu L đã đủ 18 tuổi và đã tự lo được cho bản thân, cháu H đã chết nên về con chung, anh B không đề nghị Tòa án giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Anh B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Bùi Quang B là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Anh Bùi Quang B và chị Đỗ Thị X được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 20174. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Quang B.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Quang B được ly hôn với chị Đỗ Thị X.

2. Về con chung: Anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung: Anh B không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai số 0019931 ngày 23 tháng 8 năm 2021 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Anh B đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Anh Bùi Quang B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

- Chị Đỗ Thị X được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 181/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:181/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về