Bản án về ly hôn số 37/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 37/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 13/2021/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Thị T1 – sinh năm: 1998 (có mặt) Địa chỉ: Ấp Bù Núi A, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước.

Bị đơn: Ông Điểu D – sinh năm: 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Bù Núi A, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Nguyên đơn bà Thị T1 trình bày: Bà T1 và bà Điểu D tự nguyện chung sống với nhau năm 2014, đến năm 2017 đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Lộc Ninh. Trước khi chung sống có tìm hiểu thời gian khỏang 12 tháng. Vợ chồng sống đến tháng 5 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân tính tình không hợp, bất đồng quan điểm và sống ly thân từ tháng 5/2020 đến nay. Nay bà T1 xin ly hôn với ông D.

Về con chung: Có 01 con tên Thị T2 – sinh ngày 11/9/2014. Khi ly hôn bà T1 nuôi con, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Có 01 xe máy hiệu Sirius biển số 93F1-526.73. Bà T1 tự thỏa thuận với ông D nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Bà T1 và ông D không nợ ai và cũng không ai nợ lại * Tại biên bản ngày 13/5/2021 bị đơn ông Điểu D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông D và bà T1 chung sống năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Lộc Ninh năm 2017. Vợ chồng sống không hạnh phúc do bất đồng quan điểm nên sống ly thân từ tháng 5/2020 đến nay. Nay ông D đồng ý ly hôn với bà T1.

Về con chung: Có 01 con tên Thị T2 – sinh ngày 11/9/2014, ông D đồng ý giao bà T1 nuôi con.

Về tài sản: Theo ông D không có.

Về nợ: Ông D và bà T1 không nợ ai và không ai nợi lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh phát biểu ý kiến:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật. Xác định đúng tư cách đương sự, xác minh thu thập chứng cứ đúng quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký tuân thủ quy định về pháp luật.

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thị T1;

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Thị T1 với ông Điểu D.

+ Về con chung: Giao con tên Thị T2 – sinh ngày 11/9/2014 cho bà T1 nuôi. Bà T1 không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn bà Thị T1 có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh giải quyết ly hôn với ông Điểu D nên vụ án được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông D cư trú tại ấp Bù Núi B, xã L, huyện Lộc Ninh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn là ông Điểu D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có yêu cầu vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà T1 và ông D tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Lộc Ninh vào năm 2017, vì vậy hôn nhân của bà T1 và ông D là hợp pháp. Theo lời trình bày của bà T1 mâu thuẫn từ năm 2020 do bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2020. Nay bà T1 xác định không còn tình cảm với ông D và yêu cầu được ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án ông D cũng thống nhất cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng sống ly thân từ tháng 5 năm 2020 đến nay và đồng ý ly hôn nhưng yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, do đó Tòa án không tiến hành hòa giải được. Như vậy, có cơ sở để xác định tình trạng hôn nhân giữa bà T1 và ông D đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T1.

[2.2] Về con chung: Có 01 con tên Thị T2 – sinh ngày 11/9/2014. Khi ly hôn bà T1 nuôi con. Cháu T2 cũng có nguyện vọng sống với bà T1 vì vậy giao cháu T2 cho bà T1 nuôi. Bà T1 không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Có 01 xe máy hiệu Sirius biển số 93F1-526.73 nhưng bà T1 tự thỏa thuận với ông D, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về nợ: Bà T1 và ông D không nợ ai và cũng không ai nợ lại.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, bà T1 phải chụi số tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh phù hợp nhận định của Tòa án nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình năm 2015;

- Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 và khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Thị T1 được ly hôn với ông Điểu D.

2. Về con chung: Bà T1 nuôi con tên Thị T2 – sinh ngày 11/9/2014. Bà T1 không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Có 01 xe máy hiệu Sirius biển số 93 – F1 52673 nhưng bà không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Bà T1 chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 0001497 ngày 12/01/2021 6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

434
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 37/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:10/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về