Bản án về ly hôn số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 24 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 5 năm 2022 giữa:

- Nguyên đơn: Anh Trương Văn T , sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn Qc, xã K, huyện B, tỉnh H (vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Chị Đặng Thị B , sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn M, xã Q, huyện B, tỉnh H (vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/4/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Trương Văn T trình bày: Anh và chị Đặng Thị B về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 tại Thôn M, xã Q, huyện B, tỉnh H. Việc anh chị chung sống với nhau được hai bên gia đình chấp nhận và được hàng xóm bạn bè chứng kiến. Anh chị chung sống với nhau như vợ chồng từ đó cho đến nay nhưng không đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Minh hay UBND xã Kim Ngọc nơi một trong hai bên anh chị cư trú, mặc dù đủ điều kiện kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu anh chị chung sống với nhau hạnh phúc. Đến năm 2013 thì mâu thuẫn giữa anh chị phát sinh, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên giữa anh chị thường xẩy ra xô sát, cãi vã nhau. Mâu thuẫn giữa anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng quan hệ giữa anh chị vẫn không được cải thiện. Do mâu thuẫn, nên từ năm 2015 anh chị đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, việc ai người đấy làm, không quan tâm đến nhau. Đến nay, hận thấy cuộc sống chung không thể kéo dài nên anh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang giải quyết cho anh được ly hôn chị Đặng Thị B .

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn là chị Đặng Thị B xác nhận: Lời khai của anh T về thời điểm anh chị bắt đầu chung sống, về việc anh chị chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, thời điểm mẫu thuẫn, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa anh chị và tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị đúng như lời trình bày của anh T. Hiện nay anh T có yêu cầu xin được ly hôn thì chị nhất trí.

Về con chung: Anh Trương Văn T và chị Đặng Thị B đều khai nhận quá trình chung sống anh chị có một con chung là cháu Chương Văn T1, sinh ngày 09/9/1996. Hiện nay cháu đã trưởng thành nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản chung, công nợ: Anh chị tự thoả thuận và đều không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại các biên bản xác minh ngày 26/4/2022 của Toà án nhân dân huyện Bắc Quang với đại diện UBND xã Quang Minh và đại diện UBND xã Kim Ngọc nơi anh T và chị B cư trú, phản ánh về tình trạng hôn nhân của anh chị như sau:

Anh Trương Văn T và chị Đặng Thị B về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 tại Thôn M, xã Q, huyện B, tỉnh H. Việc anh chị chung sống với nhau được hai bên gia đình chấp nhận và được hàng xóm bạn bè chứng kiến. Anh chị chung sống với nhau như vợ chồng từ đó cho đến nay nhưng không đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Minh hay UBND xã Kim Ngọc nơi một trong hai bên anh chị cư trú, mặc dù đủ điều kiện kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu anh chị chung sống với nhau hạnh phúc. Đến năm 2013 thì mâu thuẫn giữa anh chị phát sinh, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên giữa anh chị thường xẩy ra xô sát, cãi vã nhau. Mâu thuẫn giữa anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng quan hệ giữa anh chị vẫn không được cải thiện. Do mâu thuẫn, nên từ năm 2015 anh chị đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, việc ai người đấy làm, không quan tâm đến nhau. Quá trình chung sống, anh chị có một con chung là cháu Chương Văn T1, sinh ngày 09/9/1996. Hiện nay cháu T1 đã trưởng thành và có cuộc sống riêng. Về tài sản chung, do anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đại diện UBND xã không cung cấp thông tin.

Do anh Trương Văn T và chị Đặng Thị B chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn. Căn cứ vào khoản 2 Điều 206 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải về quan hệ hôn nhân và quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014;

điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Trương Văn T và chị Đặng Thị B ; về án phí, anh Trương Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về thẩm quyền: Nguyên đơn là anh Trương Văn T có đơn khởi kiện “Ly hôn” với bị đơn là chị Đặng Thị B , chị Đặng Thị B cư trú tại thôn M, xã Q, huyện B, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Bắc Quang.

Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn là anh Trương Văn T và bị đơn là chị Đặng Thị B vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về yêu cầu xin ly hôn: Việc anh Trương Văn T và chị Đặng Thị B bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 đến nay được hai bên gia đình chấp nhận và được hàng xóm, bạn bè chứng kiến nhưng không đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Minh hoặc UBND xã Kim Ngọc nơi một trong hai bên cư trú thực hiện mặc dù cả hai bên có đủ điều kiện kết hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Lời khai của anh chị phù hợp với nhau và phù hợp với kết quả xác nhận về tình trạng hôn nhân của anh chị tại Uỷ ban nhân dân xã Quang Minh và Uỷ ban nhân dân xã Kim Ngọc, huyện Bắc Quang nơi anh chị cư trú.

Tại khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:

"Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này" Tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:

"Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng" Như vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của anh Trương Văn T cần được xử bằng một bản án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa hai anh chị là có cơ sở.

[2.2] Về việc nuôi con: Quá trình chung sống, anh có một con chung cháu Chương Văn T1, sinh ngày 09/9/1996. Hiện nay cháu đã trưởng thành nên anh chị không yêu cầu giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[2.3] Về chia tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu Toà án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[2.4] Ngoài ra nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Trương Văn T và chị Đặng Thị B .

- Về án phí: Anh Trương Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số: 0003120, ngày 13/4/2022 của cơ quan Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Chị Đặng Thị B không phải chịu án phí.

- Về quyền kháng cáo: Báo cho nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về