Bản án về ly hôn số 16/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L - TỈNH Y

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 163/2021/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 10 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXX-ST ngày 10 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H 41 tuổi Địa chỉ: Tổ 11 thị trấn YT- huyện L- tỉnh Y, có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Trí Th 41 tuổi Địa chỉ: Tổ 11 thị trấn YT- huyện L- tỉnh Y, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 04-10-2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Trí Th kết hôn tháng 12 năm 2001 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn lại tại UBND thị trấn YT- huyện L- tỉnh Y. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc bình thường, đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Th ham chơi, không quan tâm đến gia đình vợ con; có quan hệ tình cảm với người khác… Do không hoà hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi, chửi nhau, có lần anh Th còn đánh chị, hai người sống ly thân một năm nay không còn quan tâm đến nhau nữa. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Vợ chồng có ba cháu là Nguyễn Ánh Ng sinh ngày 05-7-2003, Nguyễn Ng A sinh ngày 21-6- 2007 và Nguyễn Gia H sinh ngày 29-9-2018. Khi ly hôn chị sẽ nuôi cháu Gia H; còn hai cháu lớn nếu anh Th không nuôi chị sẽ nuôi cả ba cháu và không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung khi ly hôn vợ chồng sẽ tự thoả thuận, chị không yêu cầu giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y đã ra văn bản thông báo và triệu tập hợp lệ nhiều lần, thậm chí đã gặp trực tiếp nhưng do không đồng ý ly hôn nên anh Nguyễn Trí Th từ chối không ký, không nhận bất cứ giấy tờ và cũng không có mặt nên Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục pháp luật quy định.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến: Qúa trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ; bị đơn đã được triệu tập nhưng không có mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56; các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nH và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho chị H được ly hôn với anh Th; giao các con cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng…

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Trí Th là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; các đương sự có địa chỉ thường trú tại thị trấn YT- huyện L- tỉnh Y nên Tòa án nhân dân huyện L thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Mặc dù đã được triệu tập, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Nguyễn Trí Th vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án; vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tình cảm: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Trí Th kết hôn năm 2001, việc kết hôn này tuân thủ đúng những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nH hợp pháp.

Tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Kết quả xác minh tại địa phương cơ bản phù hợp với lời khai của nguyên đơn cho thấy do nhiều nguyên nhân nên trong thời gian qua vợ chồng chị H- anh Th không hạnh phúc, trong đó nguyên nhân chính là do quan điểm, tính cách, lối sống không hợp nhau. Hai người cũng đã có thời gian dài sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Qúa trình giải quyết vụ án Toà án đã ra văn bản thông báo và triệu tập nhiều lần nhằm hoà giải để vợ chồng về đoàn tụ nhưng anh Nguyễn Trí Th từ chối có mặt tham gia các phiên hoà giải đã thể hiện không còn thiện chí tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân này nữa; chị Nguyễn Thị H khẳng đình tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết đề nghị giải quyết cho ly hôn. Qua đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa chị H- anh Th đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị H và anh Th có ba cháu là Nguyễn Ánh Ng sinh ngày 05-7-2003, Nguyễn Ng A sinh ngày 21-6-2007 và Nguyễn Gia H sinh ngày 29-9-2018.

Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị H đề nghị được nuôi cháu Nguyễn Gia H, để anh Th chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ánh Ng và cháu Nguyễn Ng Anh. Hiện tại cháu Ánh Ng đã trên 18 tuổi. Xét hoàn cảnh thực tế các cháu đều là con gái đang độ tuổi phát triển về tâm, sinh lý nên rất cần sự gần gũi, chăm sóc của người mẹ. Mặc dù cháu Ng A có nguyện vọng được ở với bố nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh Th không có mặt do đó cần giao cả hai cháu Nguyễn Ng A và Nguyễn Gia H cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Do chị H không yêu cầu nên anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung; nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1- Về tình cảm: Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Trí Th.

2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

giao hai cháu là Nguyễn Ng A sinh ngày 21-6-2007 và Nguyễn Gia H sinh ngày 29-9-2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Trí Th không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh Th thực hiện quyền này.

3- Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị H đã nộp đủ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2021/0002019 ngày 06-10-2021.

4- Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 271, điều 273, Bộ luật Tố tụng dân sự; chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Nguyễn Trí Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Hinh - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về