Bản án về ly hôn số 151/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 151/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 33/2022/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2022/QĐXX-ST ngày 13 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đặng Văn Đ, sinh 1986. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 01, xã P, huyện A, tỉnh Nghệ An.

Bị đơn: Chị Lê Thị B, sinh năm 1989. Vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2.

Địa chỉ: Xóm Phúc Yên, xã N, huyện Đ, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai nguyên đơn anh Đặng Văn Đ trình bày:

Anh Đ kết hôn chị Lê Thị B vào ngày 17/10/2011, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng anh Đ sống hạnh phúc bên nhau được một thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ tháng 02 năm 2012 cho đến nay. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng anh Đ là do tính cách 02 (hai) người không hợp nhau, cuộc sống chung vợ chồng rất nặng nề, vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm nhau. Do tình cảm vợ chồng không còn nên anh Đ đề nghị Tòa án giải quyết cho anh Đ được ly hôn với chị B.

Về con chung: Anh Đặng Văn Đ và chị Lê Thị B không có con chung.

Về tài sản: Anh Đặng Văn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Lê Thị B vắng mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

Tại biên bản ghi lời khai người làm chứng bà Nguyễn Thị L là mẹ đẻ của bị đơn chị Lê Thị B, bà L trình bày: Con gái bà là chị Lê Thị B kêt hôn với anh Đặng Văn Đ vào năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chị B và anh Đ về sống với gia đình nội tại thôn 01, xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; cuộc sống vợ chồng chị B, anh Đ hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, dù đã được 02 gia đình, làng xóm hòa giải, khuyên bảo nhưng không thể đoàn tụ và đã sống ly thân từ đầu năm 2012 cho đến nay. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn trong cuộc sống anh Đ, chị B là do tính cách không hợp nhau, quan điểm sống bất đồng và do chị B bị bệnh không thể sinh con dẫn đến cãi vã, xúc phạm nhau. Trong thời gian ly thân chị B về sống cùng với vợ chồng bà L tại xóm Phúc Yên, xã N, huyện Đ, tỉnh Nghệ An cho đến nay, còn anh Đ vẫn sinh sống tại thôn 01, xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ cho chị B và bà là người nhận thay, sau khi nhận các văn bản tố tụng đó bà L đã giao lại cho chị B nhưng chị B không thể có mặt để giải quyết vụ án vì bận công việc. Về con chung: Vợ chồng chị B và anh Đ không có con chung.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Qua xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa cho thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Đặng Văn Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự và thẩm quyền giải quyết là của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại thời điểm khởi kiện, bị đơn là chị Lê Thị B cư trú tại Xóm Phúc Yên, xã N, huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa nguyên đơn anh Đặng Văn Đ, vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn chị Lê Thị B vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ. Vì vậy, việc giải quyết vụ án, xét xử vụ án vắng mặt bị đơn, nguyên đơn là đúng quy định tại Điều 207 và Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

Xét đề nghị của nguyên đơn anh Đặng Văn Đ về việc ly hôn với chị Lê Thị B, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Văn Đ và chị Lê Thị B kết hôn với nhau ngày 17/10/2011 do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hợp lệ theo quy định của pháp luật, cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc bên nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn là do tính cách hai người không hợp nhau, cuộc sống vợ chồng rất nặng nề, thường xuyên xẩy ra cãi vã không tôn trọng nhau, anh Đ và chị B đã sống ly thân từ năm 2012 đến nay và từ đó mỗi người tự lo cho cuộc sống riêng của mình, giữa anh Đ và chị B không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau nên anh Đ đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với chị B.

Xét tình cảm giữa anh Đặng Văn Đ và chị Lê Thị B thực sự không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đặng Văn Đ là phù hợp với các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Anh Đặng Văn Đ và chị Lê Thị B không có con chung.

Về tài sản chung: Anh Đặng Văn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 35, 39, 227, 228 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Đặng Văn Đ.

Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Văn Đ và chị Lê Thị B được ly hôn. Về con chung: Anh Đặng Văn Đ và chị Lê Thị B không có con chung. Về tài sản: Đường sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Đặng Văn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khẩu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp (Anh Đ đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo BL số 0002411 ngày 09/02/2022 tại Chi cục THANDS huyện Đô Lương).

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 151/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:151/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về