Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 48/2022/TLST- HNGĐ, ngày 09 tháng 8 năm 2022 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Mè Thị H; Nơi cư trú: Bản P, xã P, huyện B, tỉnh Sơn La; vắng mặt có lý do, xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đinh Văn H; Nơi cư trú: Bản P, xã P, huyện B, tỉnh Sơn La;

vắng mặt có lý do, xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13/6/2022, bản tự khai nguyên đơn là chị Mè Thị H trình bày: Chị và anh Đinh Văn H tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 23/02/2004 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do anh Đinh Văn H chơi bởi, không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình và nghiện ngập ma túy; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành.

Đến nay, chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Đinh Văn H.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị H và anh H có hai con chung là cháu Đinh Văn T, sinh ngày 04/3/2006 và cháu Đinh Thị Kim H, sinh ngày 28/3/2009. Nguyện vọng của chị Mè Thị H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đinh Thị Kim H, giao cháu Đinh Văn T cho anh Đinh Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.

Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ của ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án Do điều kiện hoàn cảnh đi làm ăn xa, không xin công ty nghỉ được chị H không thể về để giải quyết việc Ly hôn, do đó chị Mè Thị H có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai bị đơn là anh Đinh Văn H trình bày: Anh và chị Mè Thị H tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn có đăng ký kết hôn ngày23/02/2004 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Đến nay, anh H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng anh H, chị H có hai con chung là cháu Đinh Văn T, sinh ngày 04/3/2006 và cháu Đinh Thị Kim H, sinh ngày 28/3/2009. Anh H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đinh Văn T, giao cháu Đinh Thị Kim H cho chị Mè Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.

Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ của ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án Do điều kiện, hoàn cảnh gia đình đang khó khăn, việc đi lại phức tạp, anh H không thể về để giải quyết việc Ly hôn, do đó anh Đinh Văn H có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

Tại biên bản lấy ý kiến ngày 09/8/2022 cháu Đinh Văn T có nguyện vọng được ở với bố là anh Đinh Văn H và cháu Đinh Thị Kim H có nguyện vọng được ở với mẹ là chị Mè Thị H.

Do các bên đương sự có đơn yêu cầu không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải. Vì vậy Tòa án không tiến hành mở piên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Đại diện Viện kiểm sát ý kiến: Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, nguyên đơn, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt có lý do điều kiện, hoàn cảnh đi làm ăn xa, gia đình khó khăn, việc đi lại phức tạp có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt. Tòa án đã tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung thực hiện theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm đ, khoản 1, điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mè Thị H, yêu cầu ly hôn với anh Đinh Văn H; giao cháu Đinh Văn T, sinh ngày 04/3/2006 cho anh Đinh Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và giao cháu Đinh Thị Kim H, sinh ngày 28.3.2009 cho chị Mè Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí, đề nghị miễn án phí dân sự sơ thẩm cho đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Theo đơn khởi kiện và yêu cầu, đề nghị của các đương sự. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn” do nguyên đơn chị Mè Thị H khởi kiện đối với bị đơn anh Đinh Văn H có nơi cư trú bản P, xã P, huyện B, tỉnh Sơn La. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết, xét xử của Tòa án nhân dân huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Mè Thị H và bị đơn anh Đinh Văn H đã được thông báo, triệu tập hợp lệ nhưng hai bên đương sự đều có đơn xin giải quyết, xét xử vắng có lý do, nên Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải và quyết định xét xử vắng mặt chị Mè Thị H, anh Đinh Văn H theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 238Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Mè Thị H và anh Đinh Văn H có tìm hiểu và đi đến kết hôn ngày 23/02/2004 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Đến nay, chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Đinh Văn H. Nhận thấy, từ năm 2017 đến nay chị H, anh H không còn chung sống với nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bản thân anh H cũng xác định không còn tình cảm với chị H và xin được ly hôn với chị H. Do vậy, cần căn cứ vào khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H và anh H.

[4] Về con chung, cấp dưỡng nuôi con chung: Trong thời gian chung sống chị H và anh H có hai con chung là cháu Đinh Văn T, sinh ngày 04/3/2006 và cháu Đinh Thị Kim H, sinh ngày 28/3/2009, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu Đinh Thị Kim H, còn cháu Đinh Văn T sẽ giao cho anh Đinh Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Bản thân anh H cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Đinh Văn T và giao cháu Đinh Thị Kim H cho chị Mè Thị H trực tiếp nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện tại cháu Đinh Văn T có nguyện vọng mong muốn ở với bố, còn cháu Đinh Thị Kim H có nguyện vọng được ở với mẹ, nên cần xem xét, tôn trọng ý kiến của các cháu. Do đó, để đảm bảo sự ổn định, lợi ích mọi mặt của các cháu Đinh Văn T, Đinh Thị Kim H, cần giao cháu Đinh Văn T cho anh Đinh Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục và giao cháu Đinh Thị Kim H cho chị Mè Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi theo quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ chăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung: Chị Mè Thị H và anh Đinh Văn H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về tài sản chung trong vụ án.

[6] Về vay nợ chung: Chị Mè Thị H và anh Đinh Văn H xác định không có nợ chung, đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Theo Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban dân tộc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, thì chị Mè Thị H và anh Đinh Văn H đều sinh sống tại bản P, xã P, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do vậy Tòa cần xem xét miễn án phí cho các đương sự.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1Điều 228, Điều 238,Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 51, Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mè Thị H được ly hôn với anh Đinh Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Đinh Văn T, sinh ngày 04/3/2006cho anh Đinh Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và giao cháu Đinh Thị Kim H, sinh ngày 28/3/2009 cho chị Mè Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung và vay nợ chung: Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết trong vụ án.

4. Về án phí: Miễn án phí cho các đương sự.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định chung của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
  • Tên bản án:
    Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    14/2022/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    06/09/2022
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về