Bản án về ly hôn số 10/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHÁNH VĨNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa xét xử công khai vụ án Hôn nhân – gia đình sơ thẩm thụ lý số: 08/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lương Thủy T, sinh năm 1981, có mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1972, có mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/02/2021, bản tự khai ngày 08/4/2021 và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lương Thủy T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Tấn T kết hôn năm 2013 đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã K. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại thôn N, xã K, huyện K và có 02 con chung Nguyễn Lương Thảo N1, sinh ngày 04/4/2014 và Nguyễn Lương Thảo N2, sinh ngày 14/6/2016. Quá trình chung sống giữa bà và T phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau về mọi mặt, ông T chỉ lo ăn chơi cùng bạn bè, thiếu trách nhiệm với gia đình. Bà đã nhiều lần bỏ qua, khuyên can cho ông T cơ hội sửa chữa thiếu sót nhưng ông vẫn chứng nào tật đó không chịu sửa đổi, thậm chí mỗi lần bà nhắc nhở chuyện ông không lo làm ăn để lo cho gia đình ông T còn có hành vi đánh đập, chửi bà. Nay không thể kéo dài tình trạng hôn nhân này nữa nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Nguyễn Tấn T. Về con chung, sau khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành, bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung bà T không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung bà T khai không có.

Tại bản tự khai ngày 18/5/2021 và trong quá trình xét xử, bị đơn ông Nguyễn Tấn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Tấn T thống nhất với lời trình bày của bà Lương Thủy T về thời điểm kết hôn và con chung. Ông khai quá trình chung sống do vợ chồng không hợp nhau nên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong công việc gia đình. Trong lúc xảy ra tranh cải ông có đánh bà T nhưng ông cho rằng chưa đến mức trầm trọng phải ly hôn nên ông mong muốn vợ chồng hòa giải đoàn tụ cùng nuôi dạy con. Nay bà Lương Thủy T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông, ông không đồng ý. Về con chung: Ông T trình bày trong trường hợp tòa giải quyết cho bà T ly hôn với ông thì ông có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Lương Thảo N2, sinh ngày 14/6/2016, ông đồng ý giao con chung Nguyễn Lương Thảo N1, sinh ngày 04/4/2014 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung: Ông T không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung: Ông T khai không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã thực hiện việc thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định.

Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn; Về con chung: Đề nghị HĐXX giao các con chung Nguyễn Lương Thảo N1, sinh ngày 04/4/2014 và Nguyễn Lương Thảo N2, sinh ngày 14/6/2016 cho nguyên đơn bà Lương Thủy T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành; Về tài sản chung: Bà Lương Thủy T và ông Nguyễn Tấn T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về nợ chung: Bà T, ông T khai không có nên không xem xét. Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thủy T và ông Nguyễn Tấn T kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K và đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 08/2013, quyển số 01 ngày 28/6/2013. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, giữa bà T và ông T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến tranh cãi do ông T thiếu trách nhiệm với gia đình, không lo làm ăn, gây sự đánh đập bà T. Mặc dù bà T đã nhiều lần bỏ qua cho ông cơ hội sửa chữa sai lầm để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nhưng ông T vẫn không thay đổi, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ông T không đồng ý ly hôn với lý do ông còn thương vợ con. Tuy nhiên, sau khi bà T làm đơn ra tòa yêu cầu ly hôn, quá trình giải quyết và hòa giải ông T không đồng ý ly hôn và mong vợ chồng hòa giải đoàn tụ nhưng bản thân ông cũng không có cách khắc phục mâu thuẫn để hàn gắn tình cảm vợ chồng, tình trạng hôn nhân vẫn không cải thiện được. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, việc chăm sóc, quan tâm lẫn nhau không còn, do đó mâu thuẫn giữa bà T và ông T đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy có duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lương Thủy T đối với ông Nguyễn Tấn T.

[2] Về con chung: Bà Lương Thủy T và ông Nguyễn Tấn T có 02 con chung Nguyễn Lương Thảo N1, sinh ngày 04/4/2014 và Nguyễn Lương Thảo N2, sinh ngày 14/6/2016. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Lương Thủy T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung đến tuổi trưởng thành. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Ông T không đồng ý với ý kiến của bà T, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Lương Thảo N2, sinh ngày 14/6/2016 đến tuổi trưởng trành và đồng ý giao cháu Nguyễn Lương Thảo N1, sinh ngày 04/4/2014 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển tốt cả về tinh thần lẫn thể chất. Tại phiên tòa ông Nguyễn Tấn T khai hiện tại ông không có việc làm và thu nhập ổn định nên việc xem xét yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung của ông không đảm bảo để cháu được chăm sóc tốt nhất. Mặt khác, các con chung của bà T, ông T hiện đang sống cùng nhau, xét thấy việc chia cắt các cháu giao cho mỗi người (cha/mẹ) chăm sóc riêng sẽ làm xáo trộn cuộc sống và ảnh hưởng đến tâm lý của các cháu. Nguyên đơn có đủ điều kiện nuôi con và thực tế đang trực tiếp nuôi con chung, cháu N1 có nguyện vọng xin được ở với mẹ là bà Lương Thủy T. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao các cháu Nguyễn Lương Thảo N1, sinh ngày 04/4/2014 và Nguyễn Lương Thảo N2, sinh ngày 14/6/2016 cho bà Lương Thủy T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Trong quá trình nuôi con nếu gặp khó khăn bà T có quyền làm đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo quyền lợi cho con chung.

[3] Về tài sản chung: Bà Lương Thủy T và ông Nguyễn Tấn T không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

[4] Về nợ chung: Bà Lương Thủy T và ông Nguyễn Tấn T khai không có nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Bà Lương Thủy T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Lương Thủy T được ly hôn với ông Nguyễn Tấn T.

2. Về con chung: Giao các con chung Nguyễn Lương Thảo N1, sinh ngày 04/4/2014 và Nguyễn Lương Thảo N2, sinh ngày 14/6/2016 cho bà Lương Thủy T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Bà Lương Thủy T không yêu cầu ông Nguyễn Tấn T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Bà Lương Thủy T và ông Nguyễn Tấn T không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

4. Về nợ chung: Bà Lương Thủy T và ông Nguyễn Tấn T khai không có nên HĐXX không xét.

5. Về án phí: Bà Lương Thủy T phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tại biên lai số AA/2016/0004981 ngày 22 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Khánh Vĩnh. Như vậy bà Lương Thủy T đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Bà Lương Thủy T, ông Nguyễn Tấn T có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 10/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khánh Vĩnh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về