Bản án về ly hôn số 101B/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 101B/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 86/2022/TLST-HNGĐ ngày 12/4/2022 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 83/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị S, sinh năm 1976.

Nơi ĐKHKTT: KDC C 1, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Vũ Thị C, sinh năm 1990. Địa chỉ: Khu dân cư T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Công C, sinh năm 1972.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: KDC C 1, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Hàn Quốc (Vắng mặt).

3. Người làm chứng: Anh Hoàng Công A, sinh năm 1977. Địa chỉ: KDC C 1, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trần Thị S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh C tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện C(nay là phường C, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 10/01/1996. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh C và không có mâu thuẫn gì. Năm 2013 anh C đi lao động tại Hàn Quốc. Thời gian đầu anh C vẫn liên lạc về nhà quan tâm vợ con tuy nhiên đến năm 2018 anh C cắt đứt hoàn toàn liên lạc với chị S . Anh C đi nước ngoài từ năm 2013 đến nay chưa về nước lần nào. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do sự xa cách địa lý, tình cảm lạnh nhạt. Hiện anh chị không ai quan tâm đến ai, không liên lạc gì. Anh C có quan điểm sẽ không về nước. Nay Chị S nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, chung sống không có hạnh phúc, không thể hòa giải mâu thuẫn nên đề nghị tòa án giải quyết cho Chị S ly hôn với anh C .

Về quan hệ con chung: Chị S và anh C có hai con chung là Hoàng Công C, sinh ngày 03/12/1996 và Hoàng Công D, sinh ngày 05/8/1999. Hiện hai cháu đều đã trưởng thành, tự lo cho cuộc sống của bản thân nên khi vợ chồng ly hôn Chị S không đề nghị tòa án giải quyết về con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Chị S và anh C có tài sản chung nhưng Chị S xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các biên bản lấy lời khai, em trai của anh Hoàng Công C là anh Hoàng Công A trình bày: Anh C là anh trai của anh Hoàng Công A, Chị S là vợ anh C và là chị dâu của anh Công A. Anh C và Chị S tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn. Mâu thuẫn của anh C và Chị S cụ thể thì anh cũng không nắm được. Anh C hiện đang đi lao động tại Hàn Quốc. Do anh C không nói địa chỉ cụ thể nên anh không cung cấp địa chỉ cụ thể của anh C tại Hàn Quốc cho Tòa án được. Anh và gia đình vẫn thường xuyên liên lạc với anh C nên anh xác định nhận các văn bản tố tụng của Tòa án để thông báo cho anh C biết việc Chị S đang yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, đồng thời thông báo nội dung các văn bản tố tụng của tòa án cho anh C biết. Qua trao đổi thì anh được anh C cho biết anh C có biết việc Chị S xin ly hôn và có quan điểm rằng vợ chồng ly thân đã lâu, anh C đi Hàn Quốc từ năm 2013 đến nay chưa về nước lần nào, hiện anh C không có mặt ở Việt Nam nên đề nghị tòa án giải quyết vụ án theo pháp luật. Anh C xác định vợ chồng có hai con chung là Hoàng Công C, sinh ngày 03/12/1996 và Hoàng Công D, sinh ngày 05/8/1999. Hiện hai cháu đều đã trưởng thành nên anh C không đề nghị tòa án giải quyết về con chung. Về tài sản chung anh C xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do điều kiện công việc thường xuyên thay đổi địa chỉ nên anh C không thể cung cấp địa chỉ cụ thể, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh C và tống đạt các văn bản thông qua em trai anh C là anh Hoàng Công A. Anh Hoàng Công A đồng ý nhận thay để thông báo cho anh C. Ngoài ra anh không trình bày hay có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt.

Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử đến khi xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa cũng như những người tham gia tố tụng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng.

- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử chấp nhận cho chị Trần Thị S ly hôn anh Hoàng Công C. Chị S phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về thẩm quyền thụ lý và giải quyết: Chị Trần Thị S yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Hoàng Công C là người Việt Nam hiện đang lao động tại Hàn Quốc, có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương. Căn cứ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Theo Công văn của Cục quản lý xuất nhập cảnh, anh C xuất cảnh vào ngày 07/10/2013. Từ đó đến nay anh C chưa nhập cảnh lần nào.

Về việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn: Chị S chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của anh C ở Việt Nam nhưng không cung cấp được địa chỉ của anh C tại nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu em trai anh C là anh Hoàng Công A cung cấp địa chỉ của anh C đến lần thứ hai nhưng anh Công A cũng không biết địa chỉ của anh C tại Hàn Quốc. Tuy nhiên anh Hoàng Công A vẫn liên lạc được với anh C nên đã nhận các văn bản tố tụng để thông báo cho anh C . Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa Chị S vắng mặt, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; anh C vắng mặt mặc dù đã được Tòa án thông báo qua thân nhân và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định. Do đó, HĐXX căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt chị S , anh C là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh C tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện C (nay là phường C, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 10/01/1996 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Năm 2013 anh C đi lao động tại Hàn Quốc. Đến năm 2018 anh C và Chị S cắt đứt hoàn toàn liên lạc với nhau. Anh C đi nước ngoài từ năm 2013 đến nay chưa về nước lần nào. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do sự xa cách địa lí, tình cảm lạnh nhạt. Hiện anh chị không ai quan tâm đến ai, không liên lạc gì.

Xét thấy hôn nhân của Chị S và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Thông qua anh Hoàng Công A thì anh C cũng biết việc Chị S xin ly hôn và xác định vợ chồng ly thân đã lâu, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật nên cần chấp nhận cho Chị S ly hôn với anh C là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị S và anh C cùng xác định vợ chồng có có hai con chung là Hoàng Công C, sinh ngày 03/12/1996 và Hoàng Công D, sinh ngày 05/8/1999. Hiện hai cháu đều đã trưởng thành, Chị S và anh C không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị S và anh C xác định vợ chồng có tài sản chung, nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Chị S là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273, khoản 2 Điều 479 BLTTDS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 40, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 2 Điều 228, Điều 235, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị S được ly hôn anh Hoàng Công C.

2. Về án phí: Chị Trần Thị S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị Vũ Thị C đã nộp thay Chị S tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2021/0000035 ngày 07/4/2022. Chị S đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị S quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, anh Hoàng Công C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ, hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 101B/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:101B/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về