Bản án về ly hôn số 09/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHÁNH VĨNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa xét xử công khai vụ án Hôn nhân – gia đình sơ thẩm thụ lý số: 104/2020/TLST- HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXX-ST ngày 18 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Ca Thị L, sinh năm 1979, có mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

2. Bị đơn: Ông Hà S, sinh năm 1974, vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/12/2020, biên bản lấy lời khai ngày 19/01/2021 và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn bà Ca Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Hà S kết hôn năm 1996 đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã C. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại thôn Đ, xã C, huyện K và có 01 con chung Ly K, sinh ngày 05/7/1998. Quá trình sống chung giữa hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm do ông Hà S không lo làm ăn chăm lo cho gia đình mà thường xuyên ăn nhậu say sưa về nhà quậy phá, đánh đập bà. Bà đã nhiều lần bỏ qua cho ông cơ hội sửa chữa để vợ chồng đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng ông S vẫn không thay đổi, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Hà S. Về con chung, bà Lem khai con chung của bà và ông Hà S đã trưởng thành nên bà không yêu cầu giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung bà L khai không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 16/3/2021, bị đơn ông Hà S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Hà S thống nhất với lời trình bày của bà Ca Thị L về thời điểm kết hôn và con chung. Ông khai trong quá trình chung sống do vợ chồng không hợp nhau nên phát sinh mâu thuẫn. Thỉnh thoảng ông đi nhậu không đi làm nên vợ chồng xảy ra tranh cãi. Do mẫu thuẫn vợ chồng nên ông và bà L không còn sống chung với nhau từ năm 2020 đến nay. Tuy nhiên, ông vẫn còn tình cảm thương yêu vợ con nên mong bà L suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình. Nay bà L yêu cầu ly hôn ông không đồng ý. Về con chung: Ông S khai con chung của ông và bà L đã trưởng thành, tự chăm lo được cho bản thân nên ông không yêu cầu tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Ông S không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung: Ông S xác nhận ông và bà L không có nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định. Đối với bị đơn ông Hà S đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông cố tình trốn tránh không có mặt tại phiên tòa nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình do đó tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông S là đúng theo quy định của pháp luật.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã thực hiện việc thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định.

Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn; Về con chung: Con chung của bà L và ông S đã trưởng thành không yêu cầu giải quyết nên không xét. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Ca Thị L khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn ông Hà S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng với qui định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ca Thị L và ông Hà S kết hôn năm 1996, đăng ký kết hôn tại UBND xã C và đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/6/1996. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông S là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, giữa bà L và ông S thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến tranh cãi do ông Sơi thiếu trách nhiệm với gia đình, thường xuyên ăn nhậu về nhà gây sự đánh đập bà L. Mặc dù bà L đã nhiều lần bỏ qua cho ông cơ hội sửa chữa sai lầm để vợ chồng đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng ông S vẫn không thay đổi, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Theo kết quả xác minh tại địa phương ông bà đang sinh sống cho thấy quá trình sống chung bà L và ông S thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, hiện tại bà L và ông S không còn sống chung với nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án ông S không đồng ý ly hôn với lý do ông còn thương vợ. Tuy nhiên, theo lời khai của ông S, bà L thì ông bà không còn sống chung với nhau từ năm 2020 cho đến nay. Sau khi bà L làm đơn ra tòa yêu cầu ly hôn, quá trình giải quyết ông S không đồng ý ly hôn và mong vợ chồng hòa giải đoàn tụ nhưng bản thân ông cũng không có cách khắc phục mâu thuẫn để hàn gắn tình cảm vợ chồng, tình trạng hôn nhân vẫn không cải thiện được, ông bà vẫn sống ly thân. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, việc chăm sóc, quan tâm lẫn nhau không còn, do đó mâu thuẫn giữa bà L và ông S đã đến mức trầm trọng nên cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy có duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Ca Thị L đối với ông Hà S.

[3] Về con chung: Con chung của bà Ca Thị L và ông Hà S đã trưởng thành không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Ca Thị L khai không có nên HĐXX không [5] Về án phí: Bà Ca Thị L được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Ca Thị L được ly hôn với ông Hà S.

2. Về con chung: Con chung của bà Ca Thị L và ông Hà S đã trưởng thành không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Ca Thị L khai không có nên HĐXX không xét.

4. Về án phí: Bà Ca Thị L được miễn án phí theo quy định pháp luật.

Hoàn lại cho bà Ca Thị L 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2016/0004967 ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Khánh Vĩnh.

Quyền kháng cáo: Bà Ca Thị L có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ông Hà S vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 09/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khánh Vĩnh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về