Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 12/2022/HNGĐST ngày 01/3/2022 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022.

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1990 Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố 6, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; hiện cư trú tại: Ngõ 283 P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Ngọc Đ, sinh năm 1992.

Nơi đăng ký HKTT và chổ ở: Tổ dân phố 3, phường Đ , thành phố H, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện đề ngày 22/12/2021 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hoàng Ngọc Đ tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình vào ngày 29/7/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung tại nhà bố mẹ của anh Đ tại phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, thiếu sự quan tâm, chia sẽ cùng nhau. Vợ chồng không tin tưởng nhau cả về vấn đề tình cảm và kinh tế. Do tình trạng bất hòa, xung đột giữa vợ chồng diễn ra ngày càng thường xuyên nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Chị đưa hai con ra thuê nhà sống riêng còn anh Đ vẫn sống tại nhà bố mẹ đẻ. Từ đó đến nay vợ chồng không còn liên lạc, quan1tâm nhau, anh Đ không quan tâm, không có trách nhiệm trong việc nuôi dưỡng hai con chung của vợ chồng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẩn đã đến mức trầm trọng và cuộc hôn nhân của vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên chị có yêu cầu ly hôn anh Đ để ổn định cuộc sống.

- Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Thúy H xác định vợ chồng có 02 (hai) con chung là Hoàng Nguyễn Tuệ L, sinh ngày 16/01/2017 và Hoàng Nguyễn Phú C, sinh ngày 25/10/2018. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh Hoàng Ngọc Đ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị xác định trong thời gian vợ chồng sống chung không tạo lập được tài sản chung gì, vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu xem xét giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định đến bị đơn anh Hoàng Ngọc Đ.

Ngày 31/3/2022, Tòa án nhân được Bản tự khai, Đơn đề nghị Tòa án án không hòa giải và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt của anh Hoàng Ngọc Đ.

Tại Bản tự khai đề ngày 27/3/2022 gửi cho Tòa án, anh Hoàng Ngọc Đ trình bày:

Anh đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình về việc chị Nguyễn Thị Thúy H có yêu cầu ly hôn anh. Quan điểm của anh như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Thúy H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào ngày 29/7/2016 tại Ủy ban nhân dân phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẩn do tính cách vợ chồng không phù hợp. Trong cuộc sống không có tiếng nói chung, vợ chồng thiếu sự tin tưởng nhau về cả tình cảm lẫn kinh tế. Vì không khắc phục được mâu thuẩn nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Hiện tại anh Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và nhất trí với yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thúy H.

- Về quan hệ con chung: Anh Hoàng Ngọc Đ xác định vợ chồng có 02 (hai) con chung là: Hoàng Nguyễn Tuệ L sinh ngày 16/01/2017 và Hoàng Nguyễn Phú C, sinh ngày 25/10/2018. Sau khi ly hôn anh đồng ý giao cả hai con chung cho chị Nguyễn Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về quan hệ tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có các khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Tại phiên tòa: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn anh Hoàng Ngọc Đ vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn” giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy H và bị đơn anh Hoàng Ngọc Đ có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố 3, phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

[1.2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Xét thấy bị đơn anh Hoàng Ngọc Đ có đơn đề nghị Tòa án không hòa giải và đề nghị xét xử vắng mặt nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được và Tòa án xét xử vắng mặt anh Hoàng Ngọc Đ là phù hợp theo quy định tại khoản 4 Điều 207, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Hoàng Ngọc Đ là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẩn, hai bên đã sống ly thân từ 03 năm nay, hiện cả chị Hà và anh Đ đều xác định tình cảm vợ chồng không còn. Xét thấy tình trạng hôn nhân của chị Hà và anh Đ trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, anh Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, có bản tự khai và nhất trí với yêu cầu xin ly hôn của chị Hà nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hà, xử cho chị Hà được ly hôn anh Đ là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về quan hệ con chung: Theo chị H và anh Đ trình bày và căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do chị Hà nộp đã xác định vợ chồng có 02 (hai) con chung là Hoàng Nguyễn Tuệ L, sinh ngày 16/01/2017 và Hoàng Nguyễn Phú C sinh ngày 25/10/2018. Hiện các cháu đang sống cùng chị H.

Xét thấy từ khi vợ chồng sống ly thân, cả hai cháu Hoàng Nguyễn Tuệ L và Hoàng Nguyễn Phú C đều do chị Hà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, cả chị Hà và anh Đ đều thống nhất việc giao cả hai con chung cho chị Hà tiếp tục nuôi dưỡng. Xét nguyện vọng của chị H và anh Đ và để cuộc sống của các con được đảm bảo ổn định về điều kiện về nuôi dưỡng, chăm sóc nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cả hai con chung cho chị H được trực tiếp chăm soc, nuôi dưỡg. Việc chị H không yêu cầu anh Đ đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung là sự tự nguyện, là quyền tự định đoạt không trái pháp luật nên cần chấp nhận.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Hoàng Ngọc Đ thống nhất xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

[3]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thúy H phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, khoản 4 Điều 207, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thúy H

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thúy H được ly hôn anh Hoàng Ngọc Đ.

1.2. Về con chung: Giao các con chung của chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Hoàng Ngọc Đ, gồm cháu Hoàng Nguyễn Tuệ L, sinh ngày 16/01/2017 và cháu Hoàng Nguyễn Phú C, sinh ngày 25/10/2018 cho chị Nguyễn Thị Thúy H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nguyễn Thị Thúy H tự nguyện không yêu cầu anh Hoàng Ngọc Đ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn.

Không ai có quyền cản trở người không trực tiếp nuôi dưỡng thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc thăm nom, chăm sóc con chung; trong trường hợp cần thiết vì quyền lợi của các con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

1.3. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thúy H và anh Hoàng Ngọc Đ không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí ly: Chị Nguyễn Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Hà đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001118 ngày 01/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

571
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về