Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, Tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án ly hôn thụ lý số 732/2021/TLST - HNGĐ, ngày 08 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐST - HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thúy H, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: Tổ 11, phường P, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên

Bị đơn: Anh Phùng Mạnh Đ, sinh năm 1974.

Nơi cư trú: Tổ 11, phường P, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (Các đương sự có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trần Thuý Hà trình bày:

Tôi và anh Phùng Mạnh Đ kết hôn năm 2003, đăng ký kết hôn tại UBND phường P thành phố Thái Nguyên. Vợ chồng sống với nhau đã có hai con gái, nhưng từ khoảng năm 2019 đến nay vợ chồng hay xảy ra cãi vã. Anh Đ nhiều lần chửi bới xúc phạm tôi, thậm chí có hành vi đe dọa tôi về tinh thần khiến tôi vô cùng sợ hãi, khủng hoảng. Vì thế tôi đã sống ly thân với anh Đ từ năm 2020 đến nay. Trong thời gian qua tôi đã suy nghĩ kỹ và thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn.

Về con chung: Tôi và anh Đ có 02 con chung là Phùng Thị H, sinh ngày 14/9/2005 và Phùng Thị Ngọc A, sinh ngày 08/3/2014. Khi ly hôn tôi có nguyện vọng nuôi cháu Phùng Thị Ngọc A. Còn cháu H hiện đang học cấp 3 tại trường Trung học phổ thông Gang Thép, thành phố Thái Nguyên do đó để anh Đ nuôi dưỡng để ổn định việc học tập của cháu. Về cấp dưỡng nuôi con: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết việc đóng góp nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn là anh Phùng Mạnh Đ trình bày:

Tôi và chị Trần Thúy H kết hôn năm 2003, đăng ký kết hôn tại UBND phường Pthành phố Thái Nguyên theo quy định. Sau khi kết hôn vợ chồng về sinh sống tại tổ 11, phường P từ đó tới nay. Cuộc sống vợ chồng cơ bản hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì lớn. Nhưng từ năm 2020 vợ tôi đã nhiều lần bỏ đi đâu không rõ, có khi một thời gian dài không về nhà. Tôi có đi tìm nhưng chị H cố tình trốn tránh không gặp tôi. Chị H trình bày cho rằng tôi có lời nói hành động đe doạ dẫn đến chị H sợ không dám sống chung với tôi là không đúng. Tôi xác định vợ chồng có xảy ra một số bất đồng quan điểm cãi vã nhau, nhưng không nghiêm trọng như chị H trình bày. Vì vậy tôi là không đồng ý ly hôn với chị Trần Thúy H, muốn gia đình đoàn tụ để cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình và cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phùng Thị H, sinh ngày 14/9/2005 và Phùng Thị Ngọc A, sinh ngày 08/3/2014. Trường hợp chị H kiên quyết ly hôn tôi có nguyện vọng trực tiếp nuôi cả hai con chung đến khi các con đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng dưỡng nuôi con: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa các đương sự giữ nguyên quan điểm, không thay đổi bổ sung nội dung gì khác. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, không có vi phạm gì.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thúy H, cho chị H ly hôn với anh Phùng Mạnh Đ; giao con chung là Phùng Thị Ngọc A, sinh năm 2014 cho mẹ nuôi dưỡng, giao con chung là Phùng Thị H, sinh năm 2005 cho bố nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét. Buộc chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra công khai tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự và đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử nhận định:

[ 1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn cư trú trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nên Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên thụ lý giải quyết là đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2]. Về nội dung vụ án.

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy Chị H và anh Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, việc đăng ký kết hôn đã được thực hiện tại UBND phường P thành phố Thái Nguyên là cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định nên đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Chị H và anh Đ kết hôn và chung sống đã nhiều năm. Vợ chồng đã có hai con chung, anh Đ làm thợ sửa chữa tự do, chị H buôn bán nhỏ, những năm gần đây chuyển sang làm công nhân, cuộc sống gia đình cơ bản ổn định. Tuy nhiên từ khoảng năm 2019 - 2020 đến nay cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc; từ phía anh Đ cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn lớn nhưng chị H lại cho rằng anh Đ ghen tuông vô cớ, bôi nhọ xúc phạm chị trên mạng xã hội; dùng dao, dùng xăng đe doạ giết chị khiến chị lo sợ không dám ở nH; cũng không dám cho anh Đ biết chỗ ở hiện nay. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh Đ không đồng ý chị cũng kiên quyết ly hôn.

Hội đồng xét xử thấy rằng hôn nhân phải được xây dựng dựa trên tình cảm và sự gắn kết chia sẻ giữa vợ chồng. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã phân tích hòa giải nhiều lần. Tuy nhiên chị H không còn tình cảm với anh Đ và kiên quyết xin được ly hôn. Anh Đ cũng đã dùng nhiều cách thuyết phục chị H đoàn tụ nhưng đều không thành. Từ đó Hội đồng xét xử đánh giá có cơ sở cho thấy hôn nhân giữa chị H và anh Đ không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy cần áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Các đương sự đều xác định vợ chồng có hai con chung là Phùng Thị H, sinh ngày 14/9/2005 và Phùng Thị Ngọc A, sinh ngày 08/3/2014. Chị H có nguyện vọng nuôi cháu A, anh Đ có nguyện vọng nuôi cả hai con. Xét thấy cháu H đã lớn có thể tự chăm lo cho bản thân, hơn nữa cháu H đang học lớp 11 cần ổn định việc học tập nên để giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng; cháu Anh còn nhỏ (8 tuổi) nên giao cho chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi các con chung trưởng thành là phù hợp.

Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Trường hợp sau khi ly hôn chị H, anh Đ có tranh chấp có thể yêu cầu Toà án giải quyết trong vụ án khác.

[2.4] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm nộp vào ngân sách nH nước.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 147 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thúy H.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn, cho chị Trần Thúy H được ly hôn anh Phùng Mạnh Đ.

1.2. Về con chung: Giao con chung là Phùng Thị H, sinh ngày 14/9/2005 cho anh Phùng Mạnh Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; giao con chung là Phùng Thị Ngọc A, sinh ngày 08/3/2014 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Sau khi ly hôn, chị H và anh Đ có quyền và có nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

1.4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí Ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nH nước (được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai 0000692 ngày 08/11/2021 tại Chi cục THADS thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

Báo cho cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về