Bản án về ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 02năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk Mil xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 234/2021/TLST- HNGĐ, ngày 03 tháng 12 năm 2021, về việc “Xin ly hôn”, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 29/12/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 17/01/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị S, S năm 1992, có mặt.

Trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

- Bị đơn: Anh D, S năm 1989, vắng mặt.

Trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, chị S trình bày:

Chị S và anh D kết hôn vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông vào ngày 15/11/2010. Hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và không bị ép buộc. Được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển sổ 01/2002.

Anh D và chị S có 02 con chung, cháu C - S ngày 06/01/2014 và cháu M – sinh ngày 22/7/2017, hiện nay các cháu đang ở với chị S - địa chỉ Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông. Cháu C đang học lớp 02, trường tiểu học xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, cháu M hiện đang học lớp mầm ở trường mẫu giáo xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Tài sản chung: không có tài sản lớn, chỉ có đồ dùng gia đình. Tài sản riêng và công nợ không có.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Giữa anh D và chị S có những mâu thuẫn trong gia đình, mâu thuẫn trong lối sống và S hoạt trong gia đình, hai vợ chồng có cách nghĩ, quan điểm sống trái ngược nhau, không có tiếng nói chung và anh D thường xuyên uống rượu về nhà kiếm chuyện cãi nhau với chị S và đánh đập vợ con. Ngoài ra, anh D thường ra ngoài xã hội đánh nhá và bị đi tù từ năm 2017 đến tháng 09/2021, khi về nhà với vợ con nhưng không thay đổi tính nết, vợ chồng không hòa hợp được và không nói chuyện với nhau được, giữa chị S và anh D thì mạnh ai người đó sống, sống không có trách nhiệm với nhau.

Nay chị S yêu cầu giải quyết: Xin được ly hôn với anh D. Con chung: Chị S xin nuôi cháu cháu C - sinh ngày 06/01/2014 và cháu M – Sinh ngày 22/7/2017. Chị S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Tài sản riêng, công nợ không có nên không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh D: Anh D đã được Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng nhưng anh D vẫn vắng mặt không có lý do và gây khó khăn và cố tình trốn tránh giải quyết vụ án, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án xác định người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm đều tuân thủ quy định của pháp luật. Duy chỉ, bị đơn anh D không chấp hành theo quy định của pháp luật, cố tình vắng mặt không có lý do, anh D tự tước quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận đơn và cho chị S được ly hôn với anh D (chấm dứt quan hệ hôn nhân). Giao cháu C và cháu M cho chị S trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Không xem xét, giải quyết việc cấp dưỡng, tài sản chung và công nợ do nguyên đơn không yêu cầu. Buộc chị S phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án xin ly hôn giữa nguyên đơn chị S và bị đơn anh D đăng ký hộ khẩu thường trú tại và sinh sống Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý và giải quyết theo định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật đối với anh D nhưng vẫn vắng không có lý do.

Việc vắng mặt của anh D không có lý do nên Tòa án tiến hành giải quyết vắng mặt anh D theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D là đúng quy định của pháp luật.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa anh D đều vắng mặt không có lý do, đồng thời không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như đưa ra quan điểm để phán bác lại yêu cầu của nguyên đơn. Theo khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Như vậy, anh D phải chịu hậu quả về việc không đưa ra được chứng cứ để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

[4] Về hôn nhân: Chị S và anh D xây dựng gia đình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, tự do đi đến hôn nhân. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông vào ngày 15/11/2010 và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 99, quyển sổ số 01/2010. Do đó, hôn nhân giữa chị S và anh D là hợp pháp.

[5] Về mâu thuẫn: Anh D và chị S có mâu thuẫn với nhau, đó là những mâu thuẫn trong lối sống, cách nghĩ, quan điểm sống trái ngược nhau; hai vợ chồng không có tiếng nói chung trong gia đình. Chị S và anh D có thời gian dài không sống chung với nhau nên dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, chị S không còn yêu thương anh D, không còn trách nhiệm với nhau. Như vậy, mâu thuẫn giữa anh D và chị S là có thật và đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn thương yêu, không quan tâm, hạnh phúc gia đình không có. Do đó, để giải phóng cho hôn nhân không còn mục đích, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận đơn và cho chị S được ly hôn với anh D.

[6] Con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị S xin được quyền nuôi dưỡng cháu C - sinh ngày 06/01/2014 và cháu M – sinh ngày 22/7/2017, vì anh D công việc không ổn định, hay đi làm xa nên không có điều kiện chăm sóc con, sợ ảnh hưởng đến điều kiện ăn ở và việc học hành của các cháu. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, anh D vắng mặt và không đưa ra quan điểm về con cái. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu C và cháu M cho chị S nuôi dưỡng.

[7] Cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu. Tuy nhiên, vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi mức cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với các con theo quy định Luật hôn nhân gia đình.

[8] Tài sản chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết. Tài sản riêng và nợ chung: Không có.

[9] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị S phải nộp 300.000 đồng án phí theo quy định pháp luật.

[10] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 227, Điệu 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho chị S ly hôn với anh D.

2. Về con chung: Giao cháu C - Sinh ngày 06/01/2014 và cháu M – sinh ngày 22/7/2017 cho chị S được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các cháu đến tuổi trưởng thành. Anh D được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, chị S không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục con chung.

2.1 Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết.

3.1. Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định: Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, thay đổi mức cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định các Điều 84, 107, 110,116 Luật Hôn nhân gia đình.

4. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

5. Về tài sản riêng và công nợ: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị S phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000600, ngày 01/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

7. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về