TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 341/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 10 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 1085/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 59/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Trúc L, sinh năm 1989 Hộ khẩu thường trú: Số 644/24 An T, xã L, huyện C, tỉnh B; Cư trú: Số 2273/16 đường P, Phường Đ, Quận H, TP. Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1989 Địa chỉ: Số 2273/25 đường P, Phường Đ, Quận 8, TP. Hồ Chí Minh.
(Các đương sự vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/11/2020 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ nguyên đơn bà Phạm Thị Trúc L trình bày:
Bà L và ông Nguyễn Minh C tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 148, ngày 12/10/2017).
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2019 mâu thuẫn phát sinh vì đời sống chung không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên đời sống hôn nhân luôn luôn căng thẳng, ngột ngạt và đã ly thân khoảng 06 tháng nay. Dù bà L đã nhiều lần khuyên nhủ, cố gắng hàn gắn hạnh phúc nhưng không thành, nay tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Phạm Thị Trúc L yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Minh C.
Về nuôi con chung: Bà L xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Minh T, sinh ngày 19/10/2017, ngoài ra vợ chồng không còn con chung, con nuôi nào khác. Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định vợ chồng không có tài sản chung và khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Nguyễn Minh C đã được Tòa án tống đạt, triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể thu thập được lời khai và không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi xét xử; Bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự; Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Ông Nguyễn Minh C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Đồng thời, nguyên đơn bà Phạm Thị Trúc L có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 227 và Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét đơn yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Trúc L thì đây là tranh chấp ly hôn theo yêu cầu một bên, do bị đơn ông Nguyễn Minh C cư trú Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về các yêu cầu của đương sự:
[3.1] Xét thấy, bà Phạm Thị Trúc L và ông Nguyễn Minh C tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận phù hợp với Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3.2] Xét yêu cầu của bà Phạm Thị Trúc L xin được ly hôn với ông Nguyễn Minh C vì đời sống chung không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, nên làm cho đời sống hôn nhân luôn luôn căng thẳng, ngột ngạt và đã ly thân khoảng 06 tháng nay. Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông C đến Tòa để làm rõ tình trạng hôn nhân và tạo điều kiện cho vợ chồng hòa giải, đoàn tụ, hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng ông Nguyễn Minh C vắng mặt và ông cũng không có mặt tại phiên tòa xét xử, điều này thể hiện ông C không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy, tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, cả hai phải có sự thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau, cùng giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Thế nhưng, giữa bà L và ông C đã không còn sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau mà người nào chỉ biết bổn phận người đó, mạnh ai nấy sống. Tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng trong một thời gian dài, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Trúc L là có căn cứ phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.3] Về nuôi con chung: Bà L xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Minh T, sinh ngày 19/10/2017, ngoài ra vợ chồng không còn con chung, con nuôi nào khác. Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con. Do trẻ T mới hơn 03 tuổi đây là độ tuổi còn rất nhỏ cần có bàn tay chăm sóc đặc biệt của người mẹ. Mặt khác, ông C không đến Tòa nên cũng không thể hiện được ý kiến của ông về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Do đó, để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho bà L tiếp tục nuôi con, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông C cho đến khi bà L có yêu cầu là có căn cứ phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ông Nguyễn Minh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai có quyền ngăn cản theo quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình.
[3.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định vợ chồng không có tài sản chung và khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Xét, ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào Luật Phí và Lệ phí năm 2015; Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Luật Phí và Lệ phí năm 2015;
Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Trúc L.
Về hôn nhân: Bà Phạm Thị Trúc L được ly hôn ông Nguyễn Minh C. Giấy chứng nhận kết hôn số 148 do Ủy ban nhân Ủy ban nhân dân Phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/10/2017 không còn giá trị kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Về nuôi con chung: Giao 01 con chung tên Nguyễn Minh T, sinh ngày 19/10/2017 cho bà Phạm Thị Trúc L trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông Nguyễn Minh C cho đến khi bà L có yêu cầu.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định vợ chồng không có tài sản chung và khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Phạm Thị Trúc L phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai số AA/2019/ 0044662 ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà L đã thi hành xong phần án phí dân sự sơ thẩm.
Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Về Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
4. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn số 341/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 341/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về